Phụ nữ di cư
trong lĩnh vực kinh tê - lao động - việc làm
Hà Thị Thúy* **, Trần Thị Diệu Nga***, Lê Kim Anh***
* ThS., Học viện Phụ nữ Việt Nam.
** ThS., Học viện Quản lý giáo dục.
ThS., Đại học Tân Trao?
1 Bài viết là sản phẩm của Đề tài độc lập cấp Quốc gia “Cơ cở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp bảo vệ và hỗ frợ một số nhóm phụ nữ đặc thù” (Mã số đề tài: ĐTĐL.XH-04/20) do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chủ trì thực hiện năm 2020-2022.
Tóm tắt: Phụ nữ di cư có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, họ đã có những đóng góp không nhỏ để cải thiện kinh tế gia đình. Đây là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương và khó tiếp cận với các chính sách về an sinh xã hội. Bài viết này được khai thác từ số liệu khảo sát định lượng Đe tài độc lập cấp Quốc gia do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện năm 2021 ở 5 tỉnh/thành phố với số lượng phụ nữ di cư là 755 người. Những phát hiện chính cho thấy phụ nữ di cư làm ở nhiều ngành nghề khác nhau và chủ yếu làm các công việc chân tay hoặc không đòi hỏi trình độ chuyên môn; công việc không ổn định, thu nhập thấp hơn khi bị ảnh hưởng Covid-19. Bài viết cũng cho thấy trong bối cảnh hiện nay phụ nữ di cư gặp nhiều khó khăn tuy nhiên sự hỗ trợ đối với họ trong lĩnh vực kinh tế - lao động - việc làm là không đáng kể1.
Từ khóa: Phụ nữ di cư; Hỗ trợ; Kinh tế - lao động - việc làm.
Ngày nhận bài: 22/2/2022; ngày chỉnh sửa: 4/3/2022; ngày duyệt đăng:
15/3/2022'
1. Đặt vấn đề
Phụ nữ di cư (PNDC) chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng di cư ở Việt Nam trong thập niên gần đây, trung bình khoảng 57,3%, trong đó năm có tỷ trọng nữ lớn nhất là năm 2012 với 60,1%, sau đó giảm dần xuống còn 50,7% năm 2018 (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, 2021). Tìm kiếm việc làm và cải thiện về kinh tế là lý do quan trọng nhất khiến người di cư quyết định di chuyển,
chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 34,7% (UNPFA, Tổng cục Thống kê, 2015). Các nghiên cứu về di cư ở Việt Nam của Tổng cục Thống kê, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc chỉ ra rằng, mặc dù phụ nữ di cư tham gia đông đảo vào lực lượng lao động nhưng họ chưa được tiếp cận đầy đủ các quyền lợi từ các chính sách an sinh xã hội như lao động, việc làm, giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội, các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch... (LHQ tại Việt Nam, 2010; Tổng cục Thống kê, Quỹ dân số LHQ, 2016). Trong bối cảnh ảnh hưởng của Covid-19, PNDC là đối tượng dễ bị tổn thương nhất bởi đặc điểm nhân khẩu cũng như đặc trưng sinh kế của họ. Bài viết này tập trung vào phân tích thực trạng của phụ nữ di cư trong lĩnh vực kinh tế - lao động - việc làm nhằm thấy được những khó khăn của họ hiện nay trong lĩnh vực này.
Bài viết này được khai thác từ số liệu khảo sát định lượng của Đề tài độc lập cấp Quốc gia “Cơ cở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp bảo vệ và hỗ trợ một số nhóm phụ nữ đặc thù” do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chủ trì thực hiện năm 2021 ở 5 tỉnh/thành phố với số lượng PNDC là 755 người. PNDC ở 2 thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội chiếm tỷ lệ nhiều hơn (33,8% và 31%) so với Quảng Ninh, Quảng Ngãi và Đắk Lắk (với tỷ lệ lần lượt là 19,9%;
9,8% và 5,6%). Độ tuổi phổ biến của PNDC từ 41 tuổi trở lên tuổi chiếm 60,3%
tổng số người phụ nữ di cư, độ tuổi từ 31-40 chiếm 24,4%, độ tuổi trẻ dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ thấp (15,3%). Trong số PNDC phần lớn đã kết hôn (67,3%).
2. Thực trạng phụ nữ di cư vói kinh tế - lao động - việc làm
2.1. Lao động - việc làm của phụ nữ di cư
Theo số liệu khảo sát, PNDC chủ yếu làm nhiều ngành nghề khác nhau và là những công việc không ổn định, thường gặp rủi ro, trong đó tập trung nhiều hơn là tự kinh doanh buôn bán nhỏ (24,2%), bán hàng rong, vé số dạo, mua/nhặt phế liệu (20,9%), làm thuê không ổn định (18,5%). Ket quả từ nghiên cứu của Lê Phương Hòa (2021) cho thấy với những công việc tự do, khả năng tiếp cận công việc dễ dàng nhưng lại rất rủi ro. Chẳng hạn như đối với đối tượng bán hàng rong, do lấn chiếm lòng đường, vỉa hè nên khi có lực lượng trật tự thì họ phải chạy cùng hàng hóa, chưa kể họ là đối tượng dễ bị cướp giật và tai nạn giao thông. Đối với những người thu mua phế liệu, đồng nát, nhặt rác thường tiếp cận nhiều với nguồn rác thải nên thường đối mặt với các vấn đề rủi ro y tế. Những nghề làm thuê khác do không có giao ước lao động nên dễ gặp rủi ro việc làm.
về trình độ học vấn của PNDC, chiếm tỷ lệ nhiều hơn (41,7%) mới tốt nghiệp trung học cơ sở. Đa phần (84,1%) PNDC với trình độ nghề nghiệp chưa qua đào tạo, ngoại trừ PNDC là cán bộ công chức, viên chức là có trình độ từ cao
đắng trở lên. Kết quả này cao hơn so với kết quả thống kê từ cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 của Tổng cục Thống kê (2019), có tới 78,8% lao động nữ di cư từ 15 tuổi trở lên không có trình độ chuyên môn kỹ thuật trong khi trình độ sơ cấp chiếm 4,3%, trung cấp chiếm 3,9%, cao đẳng chỉ chiếm 3,3% và đại học chiếm 9,2%. Điều này phù hợp với các nghiên cứu về di cư trước đây đã khẳng định học vấn là một trong những rào cản trong việc lựa chọn nghề nghiệp ở nơi đến của người di cư (Hội LHPN Việt Nam, 2006; Học viện Phụ nữ Việt Nam, 2014; LHQ tại Việt Nam, 2010; Giang Nam, 2019). Do không có trình độ nên khi di cư ra khu vực thành phố họ chỉ có thể làm những công việc không đòi hỏi chuyên môn.
Bảng 1. Nghề nghiệp của phụ nữ di cư theo trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp (%)
Công việc chính
Trình độ học vấn Trình độ nghề nghiệp Từ
tiểu học trở xuống
Trung học cơ
sở
Từ THPT trở lên
Chưa qua đào tạo
ĐT nghề ngắn hạn có
chứng chỉ
Sơ cấp nghề
Trung cấp
Cao đẳng
Chung 21,9 41,7 36,4 84,1 5,4 2,1 4,8 3,7
Làm thuê không ổn
định 31,6 36,8 31,6 92,2 1,6 1,6 4,7
Làm thuê ờ các cơ sở
tư nhân/nhân viên các 14,3 38,6 47,1 80,3 10,6 3,0 3,0 3,0
cơ sở dịch vụ
Giúp việc gia đinh 26,3 50,9 22,8 80,4 7,1 3,6 8,9
Tự kinh doanh, buôn
bán nhò 7,9 47,8 44,4 78,2 6,7 4,8 7,3 3,0
Bán hàng rong, vé số
dạo, mua/nhặt phế liệu 40,1 48,7 11,2 97,2 1,4 0,7 0,7
Nhân viên công
ty/doanh nghiệp 9,1 6,1 84,8 47,4 10,5 21,1 21,1
Công nhân 13,8 27,6 58,6 77,8 7,4 11,1 3,7
Cán bộ, công chức,
viên chức 100 100
Nội trợ 15,0 45,0 40,0 84,6 3,8 1,9 5,8 3,8
Nguồn: Số liệu khảo sát của Đề tài, 2021.
Hiện nay, tại Điều 105 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định rõ về thời giờ làm việc bình thường, theo đó thời giờ làm việc bình thường không quá 08 giờ trong 01 ngày và không quá 48 giờ trong 01 tuần. Tuy nhiên với PNDC, số liệu khảo sát cho thấy có một bộ phận khá lớn (46%) số lượng người khảo sát làm việc trên 8 tiếng/1 ngày, trong đó PNDC làm nghề tự do kinh doanh buôn bán, bán hàng rong/vé số dạo/mua nhặt phế liệu có tỷ lệ người làm việc trên 8 giờ nhiều gần gấp 2 lần so với phụ nữ có số giờ làm việc từ 5-8 giờ.
Bảng 2. Thòi gian làm việc của phụ nữ di cư (%)
Công việc chính
Thửi gian làm việc Từ 4 tiếng trở
xuống
Từ 5 đến 8 tiếng
Trên 8 tiếng
Chung 7,7 46,3 46,0
Làm thuê không ổn định 11,3 55,6 33,1
Làm thuê ở các cơ sở tư nhân/nhân viên các cơ
sở dịch vụ 1,4 50,7 47,8
Giúp việc gia đình 20,0 36,4 43,6
Tự kinh doanh, buôn bán nhỏ 5,6 33,9 60,5
Bán hàng rong, vé số dạo, mua/nhặt phế liệu 97,0 3,0
Nhân viên công ty/doanh nghiệp 65,5 34,5
Công nhân 80,0 20,0
Cán bộ, công chức, viên chức 13,0 43,5 43,5
Nội trợ 97,0 3,0
Nguồn: Số liệu khảo sát của Đe tài, 2021.
2.2. Kinh tế của phụ nữ di cư
Lao động nông thôn di cư ra thành thị đang là một xu hướng tất yếu và phổ biến, có vai trò rất quan trọng trong quá trình sự phát triển - kinh tế xã hội của đất nước. Hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng hiện tượng người dân từ nông thôn nhập cư vào đô thị chủ yếu là do động lực về kinh tế. Nghiên cứu của LHQ tại Việt Nam (2010) chỉ ra rằng, khoảng 70% những người di cư trong nước là vì lý do kinh tế, bao gồm cả di cư tìm việc làm và cải thiện điều kiện sống. Hon một nửa số người di cư rời quê hương lên thành phố do họ không hài lòng với công việc và mức thu nhập ở quê và hy vọng sẽ có nhiều cơ hội việc làm tốt hơn ở thành phố. Cứ bốn người di cư thì có một người đi do gia đình thiếu đất canh tác và/hoặc thiếu việc làm hay thất nghiệp lâu năm.
Nghiên cứu di cư năm 2015 cho thấy, tìm kiếm việc làm và cải thiện về kinh tế là lý do quan trọng nhất khiến người di cư quyết định di chuyển, chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 34,7% (UNPFA, Tổng cục Thống kê, 2015). Chính vì những khó khăn về kinh tế và mưu sinh hàng ngày, khiến phụ nữ di cư buộc phải rời quê hương đến một nơi khác tìm kiếm việc làm và mong muốn cải thiện cuộc sống tốt hơn.
Năm 2020 và 2021 tình hình kinh tế - xã hội nước ta diễn ra trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 gặp không ít khó khăn, thách thức do vừa phải chống dịch vừa phải đảm bảo phát triển kinh tế xã hội. Thu nhập của dân cư có giảm so với năm 2019, theo số liệu của Tổng cục Thống kê thu nhập bình quân 1 người/1 tháng của Việt Nam năm 2020 theo giá hiện hành đạt khoảng 4,2 triệu đồng, giảm khoảng
1% SO với năm 2019 (Tổng cục Thống kê, 2020). Nhóm hộ giàu nhất (nhóm gồm 20% dân số giàu nhất - nhóm 5) có thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2020 đạt 9,1 triệu đồng cao gấp hơn 8 lần so với nhóm hộ nghèo nhất (nhóm gồm 20%
dân số nghèo nhất - nhóm 1), với mức thu nhập đạt 1,1 triệu đồng. Trong khi đó với kết quả khảo sát này cho thấy thu nhập trung bình của PNDC chỉ 3.102.857 đồng, tỷ lệ PNDC có mức thu nhập trên 5 triệu thấp hơn so với tỷ lệ người có mức thu nhập dưới 3 triệu và bằng hơn một nừa so với phụ nữ di cư có mức thu nhập trên 3-5 triệu. Điều đó cho thấy thu nhập của PNDC tại 5 tỉnh khảo sát là rất thấp.
Kết quả từ khảo sát này cũng cho thấy, hầu hết (81,8%) thu nhập của PNDC đều bị giảm so với trước đó, chỉ có 17,1% không có thay đổi gì về thu nhập. Chiếm tỷ lệ nhiều hơn ở mức từ 3-5 triệu đồng/tháng, PNDC có mức thu nhập trên 5 triệu/tháng chiếm tỷ lệ thấp nhất (25,0%). Đặc biệt đối với PNDC làm nghề giúp việc gia đình thì thu nhập bị giảm nhiều do chủ nhà hạn chế thuê người vì lo sợ bị lây nhiễm covid, hơn nữa họ cũng có nhiều thời gian hơn so với trước nên có thể tự dọn dẹp mà không cần đến thuê người.
“Như năm vừa rồi covid thì công việc chị có bị ảnh hưởng nhiều, người ta thất nghiệp thì người ta ở nhà làm, không thuê mình nữa. Nếu bình thường chị làm là 100% thì trong năm vừa rồi phải giảm 50% đó. Thí dụ một ngày chị làm là 4 nhà thì giờ chỉ có 2 nhà thôi, làm buôi sáng thôi, mà 2 nhà đó thì được 5 triệu tháng thế thoĩ' (PVS Phụ nữ di cư, 42 tuổi, TP Hồ Chí Minh).
Có sự chênh lệch khá lớn về thu nhập của PNDC giữa các thành phố lớn và các ở các tỉnh, cụ thể PNDC đang làm việc tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có mức thu nhập cao hơn so với 3 tỉnh còn lại, thấp nhất là Quảng Ngãi với mức thu nhập dưới 3 triệu chiếm 54,8%. Chính vì mức thu nhập ở Thành phố Hồ Chí Minh cao hơn các địa phương khác nên đây là nơi được nhiều lao động di cư nói chung và PNDC nói riêng lựa chọn tim kiếm việc làm. Kết quả từ báo cáo của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2021) cũng cho thấy, lao động di cư tới khu vực Đông Nam Bộ trong giai đoạn 2012-2018 chiếm trung bình khoảng 40,1% tông số người di cư trong cả nước, tăng trung bình 11,0%/năm, riêng Thành phố Hồ Chí Minh chiếm tới 24,9% tổng số người di cư trong cả nước.
Kết quả Bảng 3 cho thấy PNDC là nhân viên công ty/doanh nghiệp, cán bộ/công chức/viên chức và công nhân có mức thu nhập cao hơn so với các ngành nghề khác và thấp nhất ở nhóm PNDC với phần lớn công việc chính là nội trợ và bán hàng rong/vé sổ dạo/mua nhặt phế liệu, số liệu từ khảo sát này cho thấy, tại các địa bàn khảo sát năm 2021, thu nhập cùa PNDC là công nhân khá thấp, có đến 60,7% ở mức thu nhập từ 3-5 triệu và trên 5 triệu chỉ chiếm 35,7%.
Bảng 3. Thu nhập của phụ nữ di cư xét theo địa bàn, nghề nghiệp (%)
Các đặc điểm Mức thu nhập
Dưới 3 Trên 3-5 Trên 5
triệu triệu triệu
Chung 37J 41',1
21,8
Đắc Lắk 51,2 36,6 12,2
Hà Nội 38,2 40,5 21,4
Địa Quảng Ngãi 54,8 34,2 11,0
bàn Quảng Ninh 45,2 39,0 15,8
TP Hồ Chí Minh 24,1 45,5 30,4
Làm thuê không ổn định
Làm thuê ở các cơ sở tư nhân/nhân viên các cơ sở dịch vụ
45,2 18,6
41,5 52,9
13,3 28,6
Nghề
Giúp việc gia đình 19,3 50,9 29,8
Tự kinh doanh, buôn bán nhỏ 30,5 37,9 31,6
nghiệp Bán hàng rong, vé số dạo,
mua/nhặt phế liệu 49,0 41,1 9,9
Nhân viên công ty/doanh nghiệp 3,1 43,8 53,1
Công nhân 3,6 60,7 35,7
Cán bộ, công chức, viên chức 60,0 40,0
Nội trợ 77,6 20,4 2,0
Nguồn: Số liệu khảo sát của Đề tài, 2021.
Năm 2020, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân khoảng 4,2 triệu đồng/người/tháng; chi tiêu bình quân hộ gia đình cả nước là 2,89 triệu đồng/người/tháng; mức sống tối thiểu 2.065.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị (Tổng cục Thống kê, 2020). So với mức thu nhập, chi tiêu và mức sống tối thiểu theo chuẩn này, kết quả khảo sát PNDC tại 5 tỉnh cho thấy có đến 41,2%
PNDC có thu nhập thấp hon thu nhập bình quân của cả nước và chỉ có 21,2% là cao hon thu nhập bình quân của cả nước; có đến 41,2% PNDC chi tiêu cao hơn chi tiêu bình quân và chỉ có 23,3% chi tiêu dưới mức chi tiêu bình quân cả nước; có đến 14,3% PNDC có mức sống dưới mức sống tối thiểu. Xét theo địa bàn khảo sát, điều đáng lưu ý có đến hơn 1/3 số PNDC khảo sát ở Quảng Ngãi có mức thu nhập dưới mức sống tối thiểu (chiếm 35,8%).
Thu nhập của PNDC đã có những đóng góp nhất định cho gia đình, tỷ lệ PNDC cho rằng họ là người kiếm nhiều tiền hơn so với chồng cao hơn tỷ lệ cho rằng thu nhập thấp hơn người chồng (31,3% so với 26,2%). Thu nhập của PNDC chủ yếu chi tiêu cho các khoản trong gia đình như: ăn uống, sinh hoạt hàng ngày (27,5%), chăm sóc sức khỏe (15,4%), chi cho việc học hành của con (12%).
Thực tế cho thấy, chi tiêu thường xuyên của PNDC luôn ở mức cao hơn so với
chi tiêu của lao động địa phương. Họ phải chi tiền khá nhiều cho các nhu cầu thuê nhà ở, đi lại, chăm sóc y tế, hiếu hỷ... và không ít người phải tiết kiệm tiền gửi về quê hỗ frợ gia đình. Trong số PNDC tham gia khảo sát rất ít người có khoản tiết kiệm dành cho việc sinh kế của gia đình nói chung (1,3%) và với phát triển sản xuất tại địa phương nói riêng. Một số ít PNDC không sống cùng chồng/con thì họ phải gửi tiền về để trang trải sinh hoạt và tiền học cho con ở quê. Đối với những phụ nữ này họ phải chắt chiu, tiết kiệm và nếu có cơ hội tăng ca thì họ cũng cố gắng làm thêm để có tiền gửi về cho chồng/con.
Bảng 4. Chi tiêu và thu nhập của phụ nữ di cư so với mức bình quân của cả nước xét theo địa bàn và nghề nghiệp (%)
Các đặ c điểm
Mức chi tiêu/thu nhập bình quân Dưới
mức sống tối
thiểu
Cao hơn mức sống tối thiểu nhưng dưói mức chi tiêu bình quân cả
nước
Cao hơn chi tiêu bình quân
nhưng thấp hơn thu nhập
bình quân cả nước
Cao hơn thu
nhập bình quân cả
nước
Chung 14,3 23,3 41,2 21,2
Tinh/ Đắc Lắk 25,0 27,5 35,0 12,5
thành
Hà Nội 13,7 27,0 38,9 20,4
Quảng Ngãi 35,8 16,4 35,8 11,9
Quảng Ninh 13,5 29,4 40,5 16,7
TP Hồ Chí Minh 7,7 18,3 45,9 28,0
Nghề Làm thuê không ổn định 23,7 25,2 39,7 11,5
nghiệp Làm thuê ở các cơ sở tu nhân/
nhân viên các cơ sở dịch vụ 8,6 12,9 51,4 27,1
Giúp việc gia đình 5,3 19,3 47,4 28,1
Tự kinh doanh, buôn bán nhỏ 11,0 23,1 37,0 28,9
Bán hàng rong, vé số dạo, mua/
18,5 36,4 36,4 8,6
nhặt phế liệu
Nhân viên công ty/doanh nghiệp 3,1 - 46,9 50,0
Công nhân 3,6 3,6 60,7 32,1
Cán bộ, công chức, viên chức - - 60,0 40,0
Nội trợ 14,3 42,9 38,1 4,8
Nguồn: Số liệu khảo sát của Đe tài, 2021.
Trong tổng số PNDC khảo sát có đến hơn 1/5 hiện nay đang vay vốn (23%).
Lý giải cho nguyên nhân dẫn đến vay mượn, phần lớn họ đều cho rằng do thu nhập thấp và mức chi tiêu nhiều nên họ không đủ frang ưải sinh hoạt tối thiểu hàng ngày. Trong số PNDC có vay vốn, chiếm tỷ lệ cao hơn vay từ người thân, họ hàng và bạn bè (53%).
“Khi gập khó khăn về mặt kinh tế, không ai hỗ trợ hết. Mình thiếu tiền thì đi vay, trả góp. Chủ yếu là vay mượn người thân, còn mượn hàng xóm thì hơi khó. Hàng xóm thì mượn nợ, ví dụ thì 50 chục, 100 nghìn vài ngày trả thì có. Còn 500 nghìn - 1 triệu họ không dám cho mình mượn đâu. Chủ yếu mượn anh/chị/em. Còn vỉ dụ thiếu gạo thì mình mua chịu” (PVS Phụ nữ di cư, 47 tuổi, Quảng Ngãi).
PNDC vay thông qua Hội phụ nữ chiếm tỷ lệ 12,9%, các ngân hàng khác nhau chiếm từ 14,1% đến 18,2%. Điều đó cho thấy, việc vay từ các nguồn này khi gặp khó khăn không phải là ưu tiên hàng đầu của PNDC, điều này xuất phát từ việc họ sẽ phải trả một mức lãi suất cố định trong khi đó thu nhập của họ hiện nay còn rất thấp.
3. Các khó khăn của phụ nữ di cư trong lĩnh vực kinh tế - lao động - việc làm Kết quả từ nghiên cứu này cho thấy, PNDC đang gặp nhiều khó khăn, trong đó chiếm hon 1 nửa có thu nhập thấp (55,9%); công việc không ổn định, hay thay đổi (42,6%); khó tìm việc (38,7%); trình độ nghề thấp (19,8%)... Phần lớn PNDC nhận thấy tìm kiếm việc làm là rất khó khăn đối với họ, nhất là công việc bấp bênh, không ổn định, tiền công lao động thấp, công việc chân tay, mang tính thời vụ, môi trường làm việc độc hại, nguy hiểm... chỉ được ký họp đồng lao động ngắn hạn hoặc thậm chí không có hợp đồng, không tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội.
“Chúng tôi đến tuổi này rồi thì chỉ đi làm thuê tự do, khó khăn là doanh nghiệp không nhận. Đi làm thuê - ai thuê gì làm việc đó, chứ rât khó/hầu như không tìm được việc làm công ăn lương” (TLN Phụ nữ di cư, Quảng Ninh).
“Nói chung thu nhập không cố định, đi làm theo ngày, được ngày nào thì lĩnh công ngày đó thôi. Công việc thì nặng nhọc, Cuộc sống căng thăng thì đôi khi vợ chồng to tiếng là chuyên bình thường” (TLN Phụ nữ di cư, Quảng Ninh).
Chia sẻ về hoàn cảnh của một chị làm công việc nhân viên massage cho thấy, công việc của những PNDC vừa không ổn định, chứa nhiều rủi ro nhưng vì mưu sinh nên họ bất chấp tất cả để tồn tại.
“Có khách thì Ông ấy dẫn chị đi nhưng nhiều khi không có việc thì chị lại đi nhặt đồng nát. Lúc còn khỏe thì đi đố bê tông, nhưng giờ yếu rồi không còn làm được những việc như thế nữa, chủ yếu vẫn là đi nhặt rác. Ngoài những giờ phục vụ bệnh nhản, lúc bóp tay xoa thuốc, có khi có bệnh nhản ở lại thì còn phải nấu ẫn giặt giũ cho họ. Xong việc thì đi nhặt rác, có khi là đã tối muộn rồi cũng đĩ' (PVS Phụ nữ di cư, 54 tuổi, Quảng Ninh).
Bên cạnh công việc không ổn định thì công việc nặng nhọc, độc hại mà rất nhiều phụ nữ di cư hiện nay cũng đang gặp phải.
“Khó khăn thì hầu như cái gì cũng khó khăn, công việc thì nặng nhọc, độc hại, cuộc sông mưu sinh vất vả; trông dáng vẻ bề ngoài đã vất vả lam lũ; ngày lễ người có việc làm công ăn lương thì được quan tâm, ưu đãi hơn còn vợ mình làm tự do thì chẳng được nghi ngơi ” (TLN Chồng phụ nữ di cư, Quảng Ninh).
Bên cạnh đó còn rất nhiều các nguyên nhân khác như chủ thuê lao động không thực hiện đúng như thỏa thuận lúc đầu với PNDC, bị chủ gạt không trà tiền và đối với một số làm nghề ship hàng hóa thì bị gạt không trả tiền hàng...
“Khi kỷ họp đông thì nói 6 thảng tăng một lần nhưng giờ chị làm qua 13 tháng rồi cũng không thấy tăng” (PVS Phụ nữ di cư, 41 tuổi, Quảng Ngãi).
“Chủ thuê mình không phải là người ở đây, nếu có rủi ro, lừa đảo thì mình phải chịu thua thiệt, không ai bảo vệ, giúp đỡ mình. Chủ nợ lương không trả, đến khi họ bán công trình cho người khác thì biêt đâu mà tìm, đòi tiền ai được, nên đành chịu mất tiền với chủ cũ” (TLN Phụ nữ di cư, Quảng Ninh).
“Người ta bảo thuê mình làm ship hàng. Ví dụ bạn mình mới bị lừa đảo - họ thông bảo tuyển cộng tác viên lương 10 triệu đi ship hàng, để lấy được hàng thì họ nói mình phải ứng tiền, khi chuyến xong thì họ sẽ thanh toán. Giao hàng xong thì gọi cũng không liên lạc được, tiền không lấy được, mà hàng cũng mat” (TLN Phụ nữ di cư, Quảng Ninh).
Với những khó khăn về việc làm, kinh tế, thu nhập như hiện nay, PNDC đang rất cần các hoạt động hỗ trợ để họ có thể ổn định việc làm và thu nhập tốt hon. Tuy nhiên, số liệu khảo sát cho thấy có đến 85,7% PNDC không được hỗ trợ gì, chỉ có 14,3% nhận được sự hỗ trợ từ các nguồn khác nhau. Một vấn đề khá bất cập là ở các thành phố lớn nơi có nhiều PNDC tìm kiếm việc làm đã có các trung tâm giới thiệu việc làm miễn phí, tuy nhiên rất ít phụ nữ di cư biết đến các trung tâm này. Nên chăng cần tăng cường tuyên truyền để hỗ trợ PNDC tiếp cận cơ hội việc làm sớm nhất có thể, từ đó ổn định cuộc sống trong bối cảnh covid như hiện nay.
“O đây chưa có trung tâm giới thiệu việc làm; Neu có trung tâm hoặc thông tin về việc làm trên báo chí, mạng thì cũng chi dành cho giới trẻ thôi, chứ đến tuổi này rồi không tìm được, mình phải tự thân vận động; tự tìm kiếm là chính, hoặc nhờ người thân, người quen mách cho” (TLN phụ nữ di cư, Quảng Ninh).
4. Kết luận
Phụ nữ di cư tại 5 địa bàn khảo sát tập trung nhiều hon ở các ngành nghề như tự kinh doanh buôn bán nhỏ, bán hàng rong, vé số dạo, mua/nhặt phế liệu, làm thuê không ổn định. Đa phần PNDC với trình độ nghề nghiệp chưa qua đào tạo.
Độ tuổi phổ biến của PNDC từ 41-55 tuổi cho thấy dấu hiệu già hóa lao động di cư tại các địa bàn khảo sát. PNDC có thời gian làm việc trên 8 tiếng nhiều hơn và
trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 hầu hét thu nhập của PNDC đều bị giảm so với trước đó. Gần một nửa PNDC có thu nhập thấp hơn thu nhập bình quân của cả nước và có mức chi tiêu cao hơn chi tiêu bình quân.
Với những khó khăn về việc làm, kinh tế, thu nhập như hiện nay, PNDC đang rất cần các hoạt động hồ trợ để họ có thể ổn định việc làm và thu nhập tốt hom. Tuy nhiên, hầu hết PNDC không được hỗ ượ gì đa phần họ phải tự tìm kiếm công việc. Từ thực trạng kinh tế - lao động - việc làm của PNDC như trên, rất cần có sự quan tâm, hỗ trợ hơn nữa của cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương trong việc ban hành các chính sách, các quy định pháp luật phù họp với địa phương, ngành nghề, nhóm tuổi của PNDC, cũng như cần có những mô hình hồ trợ đế giúp họ cải thiện thu nhập, ổn định cuộc sống.
Tài liệu trích dẫn
Giang Nam. 2019. Cơ hội việc làm bền vững cho lao động nữ di cư: cần thêm giải pháp hỗ trợ. https://laodongthudo.vn/co-hoi-viec-lam-ben-vung-cho-lao-dong-nu- di-cu-can-them-giai-phap-ho-tro-93519.html.
Học viện Phụ nữ Việt Nam. 2014. Dự án điều tra cơ bản về chẩt lượng cuộc sổng lao động nữ di cư.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. 2006. Tác động cùa di cư tự do đến cuộc sổng gia đình nông thôn miền Bắc. Đe tài cấp bộ.
Lê Phương Hòa. 2021. Tác động của dịch Covid 19 tới lao động nữ di cư tại khu vực phi chính thức (Nghiên cứu trường họp Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh).
https://www.vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Tac-dong-cua -dich-Covid-19-toi-lao-dong-nu-di-cu-tai-khu-vuc-phi-chinh-thuc-171.
Liên Họp Quốc (LHQ) tại Việt Nam. 2010. Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đổi với sự phát triên kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Tổng cục Thống kê, Quỹ dân số LHQ. 2016. Điều tra dân sẻ và nhà ở giữa kỳ 2014.
Di cư và đô thị hóa ở Việt Nam. Nxb. Thông tấn, Hà Nội.
Tống cục Thống kê. 2020. Thông cáo báo chí về kết quả khảo sát mức sống dãn cư năm 2020.
UNPFA, Tổng cục Thống kê. 2015. Điều tra Di cư nội địa quốc gia 2015.
Viện Nghiên cửu quản lý kinh tế Trung ương. 2021. Nghiên cứu vẩn đề giói trong di cư trong nước và tái cơ cẩu kinh tê ở Việt Nam.