NGHIÊN CỨU CHỦ NGHĨAMÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNGHÒ CHÍ MINH
GIAI CẤP CÔNG NHÂN CÓ CÒN sứ MỆNH
trong thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư?
PGS, TS NGUYỀN VẢN NAM Học viện Chính trị khu vực III
M
ột C.Mác là đã trong những làm sáng tỏcống hiến sứ mệnhvì đạilịch củasử của giai cấp công nhân (GCCN): “Điểm chủyếu trong học thuyết của Mác là ởchỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sù thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xãhội chủ nghĩa”1. Cống hiến này của Mác ngày nay đang bị một số người nghi ngờ về tính xác thực của nó - nhất là trong thời đại Cách mạng Công nghiệp 4.0 - chùnghĩatư bản đã có nhiều thay đổi; chủ nghĩa xã hội đang gặp khó khăn, và cùng với sự phát triển củakhoa học công nghệ thì trí thức sẽ thay thế cho vai trò ây! Cóphải như vậykhông?Bài viết nàynhằmgiải đáp một phầncâuhỏitrên.1. Luận giải về cống hiến của C.Mác đã cónhiều đề tài, công trình và giáo trinh chứng minh trên nhữngnội dung cobànsau:
- Giai cấp công nhân là giai cấp gắn liền với hình thức sản xuất tiến bộ - nền sản xuất lớn bằng máy móc, đó là nền sản xuất của tương lai, nên GCCN gắn liềnvới tương lai của nền sản xuất, với tươnglai của toàn nhân loại.
- về cơ bảnGCCN không cótưhữuvềtưliệusản xuất và làgiai cấp bịbóc lột nhất trong điều kiện của chú nghĩa tư bản (CNTB). Không có sở hữu người công nhân phải đi làm thuê, tù đó số phận của họ, của gia đình họ phụ thuộc vào trò chơi mù quáng của ngầu nhiên, phụ thuộc vào chỗ lao độngvà bàn tay lao độngcủa họ có được cần đếnhaykhông.
- Tuy nhiên, vấn đề không chi có thế; bản thân những điều kiện của sựphát triền sảnxuất làm cho GCCN trở thànhgiai cấp có tổ chức nhất, cókỷluật nhất và giác ngộ nhất... những người công nhân cùng lao động là những tập thể lớn, và vì vậy khi đấu tranh với giai cấp tư sản và CNTB, họ hiểu rất nhanh sự cần thiết cùa tổchứcvàkỷ luật.
- Trong cuộc đấutranh để thựchiệnsứ mệnh lịch sử của mình, GCCNkhông đơn độc. Liên minhchặt chẽ với họ trong cuộc đấutranhđó là cácgiai cấp và tầnglớp khác cũngđau khổ và bịbóclột.
- Những điều kiện lao động và đời sống của GCCN làm chonó có khả năng nhấttiếp thunhững tư tưởngcáchmạngtiên tiến... Do đó, phảicónhiệm vụ đưa vào phong trào công nhân lý luận tiên tiến ấy, để có sựkết họp giữa lýluận và phong trào đấu tranh của GCCN. Chính đảng của GCCN sẽ làm nhiệmvụ quan trọng đó.
2. Lịch sử củacáchmạng thế giới đãminh chứng những luận giải trên là đúng. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của GCCN nham thực hiện sứ mệnh lịch sử củamình không phảidiễn ra mộtcách bằng phẳng, suôn sẻ.
- Cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhân loại cũng đã chứng kiến nhiều sựđổi thay - làm thay đổi sự phát triển của sản xuấtvà đời sống xã hội; bản thân CNTB cũng đã có những sự điều chinh, bổ sungvà cũng có mặt phát triển (nhưng bản chất không hề thay đổi). Với sự thay đổi đó, một số người cho
NGHIÊN CỬU CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN,Tư TƯỞNG HÒ CHÍ MINH
rằng: lý luận về GCCN không còn phù họp trong điều kiệnhiện nay, GCCNcũng đã “teo đi”, đã “tan biến” vào các giai - tầng xã hội khác, một bộ phận công nhân cũng đã được “trung lưu hóa”... cùng với sự thay đổicủa CNTB.
- Ngày nay việc áp dụng nhùng thành tựu của cuộc cáchmạng khoa họcvàcôngnghệ mới vào sản xuất làmcho lực lượng sản xuất pháttriểnmạnh mẽ chưatừngthấy (cuộc Cách mạng Công nghiệp4.0).
Từ đó có luận điểm chorằngkhi khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì trí thức mới là lực lượng tiên phong của cách mạng chứ khôngphải là GCCN. Sự phát triển của máy móc sẽthay thế con người trong tương lai.
- Sự đổ vỡcùa Liên Xôvà các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, cùng với những khó khăn ở các nước XHCN hiện nay... từ đó, họ cho rằng GCCN khôngđủkhả năng để lãnh đạoxâydựng một xã hội mới tiến bộ hơn CNTB, và điều đó cũng có nghĩa là GCCN không thể thực hiệnvà hoànthành sứ mệnh lịchsử của mình như C.Mác đã mong muốn.
Nhữngvấn đề trên không phải là hoàn toàn mới, nhưng sự chống phá lại tinh vi và ngày càng quyết liệthơn -nói đinói lại nhiều lần làm một số người tưởng rằng thật! Điều đó cũng đã làm cho một số người trước đây vốn tin tưởng vào học thuyết của Mác, ngày nay cũng có những biểu hiện nghi ngờ nhất định, từ đó làm cho tình hình “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ của Đảng diễn ra có lúc gaygat... Đe góp phần lý giảinhữngvấnđềnêu trên,cólẽcũngnên hướng vàonhững nội dung sau:
Thứ nhất, về sựđiều chinh vàthích nghicủa chù nghĩa tư bản
Không ai có thể phủ nhận được rằng CNTB với bước phát triển tất yếutừnềnvănminh nông nghiệp sang nền văn minh đại công nghiệp, gắn liền với những cuộc cách mạng dân chủ tư sản làm thayđổi xã hộiphươngTây... Sựtồn tại cùa CNTB qua các giai đoạn2đã thúc đẩy sựphát triển của lực lượng sản xuấtcó những bước phát triển thần kỳ, với tốc độ kỷ lục, từ đó chứng minh rằng khả năng làm ra cùa cải của xã hội loài ngườikể từ ngày cónềnvăn minh công nghiệpdưới sự quản lý của CNTB là rất lớn, vàngàynay là nềnkinh tế tri thứcvớisản xuất xanh, sạch...
Ngày nay, có thê vẫncòn những quan niệm khác nhau về CNTB hiện đại, nhưng điều quan trọng là cần rà soátlại nhữngquy luật,đặc trưng vốn cócủa CNTB. Với quan niệm đó, thiết nghi cần nhìnnhận một số vấn đề sau:
Một, sản xuất nhiềuvà ngày càng nhiều hơngiá trị thặng dư
Tuy có sự đau tư vào con người, vào việc thỏa mãn những nhu cầu có chất lượng, đảm bảo chất lượng sốngcủa con người... nhưng, quy luật giá trị thặng dư vẫn là quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB, nó quy định bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, chi phối mọi mặt đời sống kinh tế của xã hội tư bảnngày nay. CNTB hiện đại sẽ sụp đổ, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa sẽ bị rối loạn, sản xuất đình đốn nếu ngừng sảnxuất giá trị thặng dư.
Hai, về chế độ sở hữutư nhân tư bảnchủ nghĩa Dù có sự điều chỉnh một số hình thức sở hữu, nhưng diêm đặc trưng nhất của CNTB là thừa nhận quyền sởhừu tư nhân và quyền tự do sản xuất, kinh doanh, đượcxã hội bảo vệ về mặt luật pháp và được coi như một quyềnthiêng liêng bất khả xâm phạm của con người. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, quyền tư hữu đốivới tư liệu sản xuất được xãhội và pháp luật bao vệ, sự chuyển đổi quyền sở hữu phải thông qua giao dịch dân sựđược pháp luật và xã hội quyđịnh.
Có thê nói cácyếu tố quyền tư hữu, thành phần kinhtế tư nhân, kinh doanh tự do, cạnh tranh, động lực lợi nhuận, tính tự định hướng, tự tô chức, thị trường lao động, định hướng thị trường, bất bình đăng trong phân phối của cải... là các nội dung gắn liềnvới nềnkinh tế tư bảnchù nghĩa.
Ba, về mâuthuẫn giữa tư bản và lao động Trong CNTB hiện đại, mâu thuẫn này không he bị mất đi (mặc dù có sự đầu tư đối với con người nhiều hơn trước), thậmchí có mặt còn sâu sắc hơn.
Sự phân cực giàu - nghèo ngày càng tăng lên với khoảng cách ngày càng lớnchứngtỏnguồn gốc làm naỵ sinh mâu thuẫn không hề bị mất đi, dù được biểu hiện dưới nhữnghìnhthức tinh vi.
Mặcdù CNTB hiện đại có sự điều chinh vàcó mặt pháttriển, ngày nayvới lực lượng sảnxuất đồ sộ như vậy, thì việc nuôi sống con ngườitrên hànhtinh là điều đơn giản, nhưng điều đó lạikhông thế xảyra và cũng không baogiờ xảy ra - nếuvẫn tồn tại chếđộ sở hữu tư
NGHIÊNCỬU CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNGHÒ CHÍ MINH
nhân - thế giớivẫntồntại một châuPhiđói, một châu Ánghèo, một châu Âu nợnầnchồng chất... vẫn còn hàng trămtriệungười trên trái đấtthiếu ăn vàchưa biết chữ, những cuộc chiến tranh, những vụ khủng bố mang tầmcỡ quốc tế, những làn sóngngười di cư chưa có điểm dừng, tệ phân biệtchủngtộc... Lịchsửcũng đãghinhậnrằng, CNTB không thể thiết lập mối quan hệ binh đẳng giữacác dântộc, biến các dân tộc khác thành thị trường khai thác nguyên liệu và giá nhân công rẻ,là sự thúcđẩycác nước lớn(đế quốc) đixâm chiếm thuộc địa và chiasẻ thế giới. Điều dễ nhận thấy cạnh tranh không lành mạnhlà nguồn gốc của chiến tranh, của áp bức dân tộc, của chủ nghĩa thực dân, của họa phát xít... mà nạn khủng bố không phải là cái gì khác ngoài sự phản ứng trực diệnđốivớicác thế lựcáp bức dân tộcvàkỳthị tôn giáo.
Nhữngđiềunói trên có thể chưa đầy đủ, nhưng cũng là cơ sở để nói rằng: CNTB không phải là chế độ xã hội vĩnh hằng, vàcũng không phải là chế độ hoàn toàn chi có sự ưu việt, và điều đó cũng cho thấysựrađời của một chế độ xã hội mới - chế độxã hội xã hội chủ nghĩa - ưu việt hơnlà vấn đề mang tính quy luật, và lực lượng thực hiện sứ mệnh ấy không ai khác hơn là GCCN.
Thứ hai, khó khăn của CNXH từsự đo vỡ của mộtsô nướcxã hộichủ nghĩa
Thất bại ở mộtsốnướcxãhộichùnghĩa vừa qua là một bước thụt lùi nghiêm trọng của phong trào cộng sản và côngnhân. Tình hình vẫn còn diễn biến phức tạp, song thất bại này xét đến cùng là sai lầm của các đảng cộng sản ở nước đó, thực tế đó cho chúng ta thấy được nhữngvấn đề sau:
- Thất bại vừa rồi không nói lên học thuyết sứ mệnh lịch sử của GCCN bị sụp đổ, mà chì rõ rằng các đảng cộng sản - trước hết là những người nắm trọng trách ở những nước đó - phải làm thế nàođể thựchiệnđược sứmệnh lịchsử của GCCN.
- Thất bại này cũng chứng minh một cách sinh độngrang: neuGCCNkhông phát huy mạnh mẽ được nhân tố chủ quan, đặc biệt là không xây dựng được mộtchínhđảng tiên phongvững mạnhthì khôngthể hoàn thành được sứ mệnh lịch sửcủa mình.
- Thất bại này cũng nói lên cuộc đấu tranh của GCCN dưới sự lãnh đạo của chínhđàng vi mục tiêu CNXHcòn lâu dài vàquyết liệt, phải trải qua nhiều
bước quanh co mới đi đến đích. Trong quá trình ấy một trong những điều cần chú ý là xây dựng bản chấtGCCN của đảng...
Thứba, khoa họccôngnghệ, mảy móc phát triên có thay the con người không?
Khoa học công nghệ pháttriến,máy móc sẽ phát triển nhiều hơn - không chỉ được giao chứcnăng thể lực, mà cảtrí tuệ củaconngười nữa- ở một số chồ máy móc cũng vượt qua khả năng tư duy của con người... nhưng để ròi từ đó cho rằng máy móc sẽ thay thế hoàn toànconngười là điều khó có thể chấp nhận được!
ở một số chồ máy móc có thể vượt qua tư duy của con người, nhưng đểtừđó gánchonó có thuộc tính tư duy - đặc trưng của con người là không đúng. Máy móc không tư duy theo kiểu của con người, mà chỉ là bắtchước, mô hình hoả từng chức nănglôgic vốn có củacon người. Tư duy đã vàvẫn là thựcthểcủa bộnão - một sản phẩm hữu cơ của sự tiếnhoá sinh vậtvàxã hội, nó đã vàvẫn mang tính xà hội theo bản chất của mình; còn máy móc, thiết bị cho dù là hoàn hảo - cũngvẫn chi là sảnphẩmdo conngười chế tạo vàsử dụng mà thôi.Con ngườicó thể tư duy và tư duykhông cần đến máy móc, còn máy móc nếukhôngcóconngười thì không thể làm được điềugì cả!
Máy móc dùcóthể hơn conngười ở một sốđiểm nào đó, nhưng cũng không thể sánh được với con người về khả năng cải tạo tích cựcthực tại, về khả năng xây dựng và sáng tạo. Con người biết vui, buồn, thưởng thức, cảm xúc, yêu, ghét... có khả năng sáng tạotheo quy luật của cái đẹp chân chính.
Điều đó không có nghĩalàgiới hạnviệc hoàn thiện máy móc cókhả năng tư duy - giới hạn đólà không tin vào sức mạnh trí tuệ của con người; nhưngmột bộ nãođiệntử,nếu nó được tạo ra, thì không phải là để thay thế con người, mà là để giải phóng trí tuệ conngười khỏi những thao tác đơn điệu,vất vả.
Sự phát triên của khoa học và công nghệ, sự xâm nhập của của khoa học vào sản xuất, vào đời sống diễn ra không đều đặn và có những đột biến. Có cái hôm qua được đưa lên hàng đầu,hômnay đã trở nên lỗi thời, có cái hôm nay mang tính chất cấp thiết, ngàymai có thể sẽ phải nhường chỗ cho những cái mới hơn... Tất cả những điều đó đã đềra những đòi
NGHIÊNCỨU CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TưTƯỞNGHÒCHÍMINH
hỏicao hơn trongviệc đào tạo “phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lựcchấtluợng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng CáchmạngCôngnghiệp lần thứ tưvàhội nhập quốc tế; đòi hỏi phát triểnđội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhânlực số, nhân lực quàn trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp, nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộcsống, chăm sóc con người”3. Trong điều kiện và đòi hỏi như vậy, chỉ có GCCN được đào tạo và ngày càng nâng trình độ tay nghề, học vấn... thì mới có khả năng đápứng những vấnđề quan trọng của khoa học, côngnghệ và sản xuất... vì GCCN gắnliềnvớihình thức sản xuất tiến bộ - nền sản xuất lớn bằng máy móc; vì nềnsản xuất đó là nềnsản xuất tương lai, nên GCCN gắn liền với tương laicủa nền sản xuất, với tương lai của con người.
Thứtư, tầng lóp (đội ngũ) tri thức có thê lãnh đạo thay thế GCCN không?
Không ai có thể phủ nhận rằng khi khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì trí thức có vai trò quan trọng, đó là điều đươngnhiên.
Ngay khi khoa học chưa trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trí thức có vai tròquan trọng, nhưng từ đó tuyệt đốihóa vai trò của trí thứcđể hạ thấp vai trò của GCCNlà điều hoàn toàn không đúng cả lý thuyếtlẫnthực tiễn.
vềphương diện lýthuyết, thời nào trí thứccũng có vai trò quan trọng, song cần khẳng định lại rằng quyền lực ởbấtkỳ thời đại nào cũng đều nằm trong tay giai cấp thống trị, mà trước hết là giai cấp đó thốngtrị về kinh tế. Do vậy, với tư cách là một tầng lóp xã hội, trí thức không thể tách ra và lãnh đạo xã hội trong điều kiện xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tríthức lại càng không thể thay thế GCCN là người lãnh đạo sự nghiệp xây dựng CNXH, vì:
trong xã hội, trí thức là mộttầng lóp xã hộikhông thuần nhất, thường bao gồm những ngườixuất thân từcácgiai - tầngxã hội khác nhau; trí thứcchưabao giờ là mộtgiai cấp, không đại biểucho một phương thức sản xuất,khôngphải là lựclượng kinh tế, chính trị độc lập trước các giai - tầng xã hội khác; hơn nữa, trí thức không có hệ tư tưởng độc lập, mà thườngtiếpthu và chịu ảnhhưởngtư tưởng của các giai cấp mà họphụcvụ4.
về phương diện thực tiễn, mặc dù đa số những người lãnh đạo là trí thức, nhưngđiềunàykhôngcó nghĩa là trí thức lãnh đạo. Bởi lẽ, xét về phương thức lao động, thì cá nhân những người lãnh đạovà quản lý là trí thức, nhưng là trí thức đang phục vụ cho giai cấp nhất định; ở nước ta thực chất công việc của họ (trí thức)là hành động theo hệ tưtưởng và đường lối chính trị của GCCN, đứng trên lập trường của GCCN, họ không lấy tư cách là đạidiện cho đội ngũ trí thức để lãnh đạovàquảnlý xã hội...
3. Đại hội Đại biểu lần thứ XIII (2021) của Đảng xác định: “Xây dựng GCCN hiện đại, lớn mạnh;
nâng cao bản lĩnh chính trị, trìnhđộhọc vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phongcông nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tăng cường tuyên truyền giáo dục chính trị, tưtưởngcho GCCN... Giữ vững bảnchat GCCN của Đảng,kiên định cácnguyêntắc xây dựng Đảng”5. Trên tinh thần đó, thời gian sắp đến cần hướngvàonhữngnội dung sau:
Thứ nhất, cần khẳng định rằng việc luận chứng sứmệnh lịch sử của GCCN không phải là sự ápđặt cùa Mác, mà là sự phân tích khoahọc của Mác và Ăngghen về các quy luậtphát triển xãhội... Cũng như việc khẳng định bản chất GCCN của Đảng, Đảng làđộitiênphongcủa GCCN - giai cấp màbản chất và lợi ích của nó gắn liềnvới CNXHvà vì con người. Đê thực hiện được sứ mệnh lịch sử của GCCN thì việcđầutiên là phải giáo dục, rèn luyệný thức giai cấp cho GCCN. Đây là nhiệm vụ cực kỳ khó khăn chẳng những đối với các nước mà ở đó GCCNchưa giành được chínhquyền, mà ngay cả ở nhừng nước đã giành được chính quyền - kể cả ở nước ta...6. Bên cạnh việc tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng đốivớiGCCNcũng cần chútrọng việc chăm lo đời sống vật chất, tinhthần, nhà ở và phúc lợi xã hội chocông nhân;bảo vệ quyền và lợi íchhọp pháp,chính đáng của côngnhân.
Thứ hai, trong quátrình thựchiện sứ mệnh lịch sử của mình, GCCN không có vũkhínàoquantrọng hơn là tổ chức, do vậy, điều kiện cóý nghĩa quyết định đê GCCN thựchiệnvàhoàn thành sứmệnh của mình ngoài việc tổ chức đội tiên phong của GCCN thành một đảng mácxít - lêninnít chân chính, trung
NGHIÊNCỨU CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNGHÒ CHÍ MINH
thành với sứ mệnhlịch sử cùa GCCN, thì phải chú trongđếncôngtácxây dựng Đảng.
Bản chất GCCN của Đảng thể hiện ở chồ: mục tiêu, lý tưởng của Đảng là CNXH và CNCS; nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nguyên tấc to chức cơbản của Đảng là tập trung dân chủ; Đảng liên hệ mật thiết với quần chúng; lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển... Vì thế, để giữ vững và từngbướcnâng cao bẳn chất GCCN cùa Đảng cũng phảichú ý vàonhữngnội dung nêu trên. Trong giới hạn có thể cần chúý những giảiphápsau:
Một ỉà, việc kiên định mục tiêu, lý tưởng:
CNXHvàCNCS.
Từ khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, cách mạng xã hộichủ nghĩa đi vào thời kỳ thoái tràovà đãlàmnảysinhnhiềucuộctranh luận, đánh giá lại CNXH. Để đánh giá một cách khách quan vềCNXH cần có phương pháp luận đúng đắn(các quan điểm)7; đồng thời, cũng cần nhận thấy rằng thoái trào ở các nước xã hội chủ nghĩa đã tác động lớn (tác động tiêu cực) vào tình hình thế giới, khiến cho phongtrào cách mạng bị đẩylùi,nhân loại tiến bộ lo âu, các thế lực thù địch, phản động tăng thêm cuồng vọng chốngphá CNXH... Tuy nhiên, ở một tầmnhìn khácmà nhận định thì thất bại này chỉ là tạm thời; qua bước thụt lùiđáng tiếc này, CNXH sẽ vượt qua những thách thức, khôi phục lại sức sống cùa minhvàtiếp tục đi lên.
Hai là, nền tảng tưtưởng của Đảng: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cùng với việc kiên định mục tiêu, lý tưởng, Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tiếpthutinhhoavănhóacủa nhân loại, tri thức mới của thời đại, nâng cao năng lực trí tuệ; phải xuất pháttừthựctiễn của đất nước; tiếp tục đối mới mạnh mẽ tư duy lý luận, kiên định về nguyên tắc, chiến lược, sáng tạo, linhhoạt về sách lược, phương pháp; chốnggiáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc đổi mới vônguyên tắc, chủ quan, nóngvội.
Lấychủ nghĩaMác - Lênin, tưtưởng Hồ Chí Minh làm nềntảngtư tưởng của Đảng, nhưngphảiđổi mới nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác
-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Không có lýluận cách mạngthì cũng không thể có phong ưào cách mạng, và đảngnàođượcvũtrangbởi một lýluậntiên phong thì mới cókhả năng hoàn thành vai trò chiến sĩtiên phong - lờidạyấy cùa Lênin luôn đúng,nhưng không phải là lý luận suông, mà phải luôn bám sát thực tiễn, vận dụng vàothực tiễn; lắng nghe tâm tư, nguyện vọngcủa cán bộ, đảng viên vànhân dân để có giải đápxácthực, kịp thời; đấu tranh khắc phục những biểu hiện phai nhạtlý tưởng, cơ hội;chủ động vàkiên quyết phê phán những quan điểm sai trái, bác bỏ những luận điệu phản động,góp phần làmthất bại mọi mưu toan của các thế lựcthù địch.
Ba là, mối quan hệ giữaĐảng vàNhân dân.
Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng. Cán bộ,đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa làcôngbộccủa nhân dân; sựtintưởng, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân là cội nguồn sức mạnh, là cái gốc của thắnglợi, là tài sản quý báu của Đảng.
Vì vậy, cầngiải quyếttốtcácvấn đề như lợi ích giữa các giai - tầng xã hội trên phạm vi cả nước cũng nhưtừng lĩnh vực, tùng địa phương; bảo đảm sự hài hòagiữaphát triển kinh tế vớitiến bộ và công bằngxã hội; hoàn thiện những thiết chế để thựchiện dân chủ, thực hiệncó hiệu quả Pháp lệnh 34 về dân chủở xã, phường, thị trấn8...
CuộcCách mạngcôngnghiệp lần thứ tư vừa đòi hỏi, vừa tạo điềukiện để GCCN nâng cao trình độ mọimặt; nền sản xuất ấy ngày càng tạo ra đội ngũ công nhân tríthức hóavàtrí thức hóacông nhân, và cũng chỉ có như vậy GCCN mớithích ứng và điều hành đượcnềnsảnxuấthiện đại...
1. V.I.Lênin: Toàntập,t.23,NxbTiếnbộ,M, 1976,tr. 1.
2. Các giai đoạn của CNTB: Tự do cạnh tranh; độc quyền; CN đếquốc và CNTB hiện đại.
3. ĐảngCộng sản Việt Nam: Vãnkiện Đạihội Đại biếu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG - ST, H, 2021,tr. 231.
4. Song cũng cần nhấn mạnh rằng bằngtài năng và trítuệ của minh, tríthức đãtổngkết, khái quát thực tiễn hình thành hệ tư tưởngcho các giai cấp, vàhọ chịu ảnhhưởng cùa tưtưởngđó.
Xem tiếptrang 81