THỰC TRẠNG PHÂN LOẠI VÀ THU GOM CHẤT THẢI RẮN Y TẾ CỦA CÁC CƠ SỞ Y TẾ TẠI VIỆT NAM NĂM 2017
Lê Thị Thanh Hương1, Trần Thị Vân Anh2, Trần Khánh Long3, Trần Thị Tuyết Hạnh1, Lê Thị Kim Ánh1, Phan Thị Thu Trang1,
Nguyễn Quỳnh Anh1, Nguyễn Thị Liên Hương4, Nguyễn Thanh Hà4, Lê Mạnh Hùng4
TÓM TẮT46
Trong những năm gần đây, công tác quản lý chất thải y tế (QLCTYT) tại các cơ sở y tế (CSYT) ở Việt Nam đã được cải thiện rất nhiều.
Tuy nhiên các hoạt động đầu tư, tăng cường năng lực chủ yếu tập trung vào các CSYT tuyến tỉnh trở lên và tại các CSYT tuyến huyện và xã vẫn còn chưa được quan tâm đúng mức. Mục đích của nghiên cứu là mô tả thực trạng phân loại và thu gom chất thải rắn y tế của các cơ sở y tế tại Việt Nam năm 2017. Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện tại 1.112 cơ sở y tế ở Việt Nam từ tháng 9/2017 đến tháng 12/2017 và sử dụng bảng kiểm đánh giá công tác quản lý chất thải tại CSYT theo Thông tư số 58/2015/TTLT-BYT- BTNMT ngày 31/12/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy công tác phân loại và thu gom chất thải rắn y tế tại các cơ sở y tế được thực hiện tương đối tốt. Chất thải lây nhiễm sắc nhọn, chất thải lây nhiễm không sắc nhọn và chất thải thông thường không tái chế là ba loại chất thải được phân loại tốt nhất (93,5%, 86,6% và 81,8%). Phần lớn các cơ sở y tế đều thực hiện thu gom riêng chất thải
1Trường Đại học Y tế công cộng
2Tổ chức The University of North Carolina
3Tổ chức Program for Appropriate Technology in Health
4Cục Quản lý môi trường Y tế
Chịu trách nhiệm chính: Lê Thị Thanh Hương Email: [email protected]
Ngày nhận bài: 23/3/2022
Ngày phản biện khoa học: 07/4/2022 Ngày duyệt bài: 15/4/2022
lây nhiễm từ nơi phát sinh về khu vực lưu giữ chất thải (69,1%). Chất thải tái chế thường không được các cơ sở y tế thu gom riêng với chất thải thông thường. Các cơ sở y tế tuyến xã có tỷ lệ phân loại và thu gom chất thải rắn y tế thấp hơn so với các tuyến trên do thiếu các trang thiết bị dùng để phân loại và thu gom chất thải theo quy định. Thực tế trên đòi hỏi ngành y tế cần quan tâm, đầu tư hơn nữa cho công tác phân loại và thu gom chất thải rắn y tế, đặc biệt đối với các cơ sở y tế tuyến xã.
Từ khóa: phân loại, thu gom, chất thải rắn y tế, cơ sở y tế, Việt Nam
SUMMARY
CLASSIFICATION AND COLLECTION OF MEDICAL SOLID WASTES
AT MEDICAL FACILITIES IN VIETNAM, 2017
The objective of this study was to describe the current situation of classification and collection of medical solid wastes at medical facilities in Vietnam in 2017. The cross-sectional study was conducted at 1,112 medical facilities in Vietnam since September 2017 to December 2017. The results showed that the classification and collection of medical solid wastes at medical facilities was relatively well done. Sharp infectious wastes, non-sharp infectious wastes and non-recyclable domestic wastes were the three best classified wastes (93.5%, 86.6% and 81.8%). Most medical facilities (69.1%) collected infectious waste separately from the place of origin to the waste storage area. The
recyclable wastes were not separately collected from domestic wastes by medical facilities.
Commune health facilities had a lower rate of classification and collection of medical solid wastes compared to the upper levels due to the lack of equipment to classify and collect wastes as required. This fact requires the health sector to pay more attention and invest in the classification and collection of medical solid wastes, especially at the commune health facilities.
Keywords: classification, collection, medical solid wastes, medical facilities, Vietnam
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chất thải rắn y tế (CTRYT) phát sinh từ cơ sở y tế (CSYT) bao gồm từ hoạt động y tế và hoạt động sinh hoạt của người bệnh và người nhà người bệnh. Theo thống kê của Cục quản lý môi trường y tế năm 2015, Việt Nam có trên 13.500 CSYT làm phát sinh khối lượng CTRYT khoảng 590 tấn/ngày và đến năm 2020 là khoảng 800 tấn/ngày [1].
Chất thải rắn y tế bao gồm chất thải thông thường (CTTT) và chất thải nguy hại (CTNH); trong đó CTTT chiếm khoảng 80- 90%, chỉ khoảng 10-20% là CTNH bao gồm chất thải lây nhiễm (CTLN) và CTNH không lây nhiễm [1]. Đây là một vấn đề sức khỏe môi trường-nghề nghiệp cần được quan tâm tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Nếu không được quản lý tốt, chất thải từ các CSYT sẽ trở thành nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng. Trong những năm gần đây, công tác quản lý chất thải y tế (QLCTYT) tại các cơ sở y tế ở Việt Nam đã được cải thiện rất nhiều. Tuy nhiên các hoạt động đầu tư, tăng cường năng lực chủ yếu tập trung vào các CSYT tuyến tỉnh trở lên. Trong khi đó công tác này tại các CSYT tuyến huyện và xã vẫn còn chưa được quan tâm đúng mức.
Nhiều CSYT vẫn gặp khó khăn trong công
tác QLCTYT nói chung và thu gom, phân loại CTYT nói riêng do thiếu các trang thiết bị và cơ sở vật chất cũng như các trang thiết bị hiện có chưa đảm bảo đúng tiêu chuẩn của Bộ Y tế quy định. Năm 2017, Trường Đại học Y tế công cộng đã phối hợp với Cục Quản lý môi trường Y tế và Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường tiến hành khảo sát thực trạng quản lý CTRYT tại các CSYT của 19 tỉnh đại diện cho các vùng miền Việt Nam. Bài báo này mô tả về thực trạng công tác phân loại và thu gom CTRYT tại các CSYT của Việt Nam trong khảo sát trên.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác quản lý CTRYT của các cơ sở y tế.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 9/2017 đến tháng 12/2017 tại các bệnh viện tuyến Trung ương trực thuộc Bộ Y tế và các cơ sở y tế tuyến tỉnh, huyện, xã thuộc 19 tỉnh/thành phố tại Việt Nam.
2.3. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.4. Cỡ mẫu nghiên cứu
Cỡ mẫu được ước lượng theo từng tầng.
Cỡ mẫu cho tuyến trung ương: Toàn bộ 42 bệnh viện tuyến trung ương trực thuộc Bộ Y tế.
Cỡ mẫu cho tuyến tỉnh/thành phố, quận/
huyện và xã/phường tính theo công thức:
d xDE
n z 2
2 2
2 /
1
= − Trong đó:
- n: cỡ mẫu tối thiểu của nghiên cứu - Z(1-α/2)=1,96
*Đối với tuyến tỉnh/thành phố và quận/huyện:
- (độ lệch chuẩn) = 0,1
- d (độ chính xác tuyệt đối) = 0,015 theo nghiên cứu của Nguyễn Đức Lương năm 2014 [2]
- DE (hiệu lực thiết kế) =1,5 (do chọn mẫu nhiều giai đoạn)
Dự kiến tỷ lệ mất mẫu là 5%, cỡ mẫu tính được cho tuyến tỉnh và tuyến huyện là 270 CSYT.
*Đối với tuyến xã/phường:
o = 0,05
o d = 0,005 theo nghiên cứu của Cục Quản lý môi trường Y tế năm 2015 [3]
o DE = 2 (do chọn mẫu nhiều giai đoạn) Dự kiến tỷ lệ mất mẫu là 5%, cỡ mẫu tính được cho tuyến xã/phường là 810 CSYT.
Như vậy, tổng cỡ mẫu để đánh giá thực trạng thu gom và phân loại CTRYT là 1.122 CSYT. Tuy nhiên, số CSYT tiến hành thu thập được số liệu trên thực tế là 1.112 CSYT do có một số CSYT trong danh sách dự kiến đã đóng cửa (chủ yếu là các phòng khám tư nhân).
2.5. Phương pháp chọn mẫu
Phương pháp chọn mẫu cụm theo tỷ lệ với kích cỡ quần thể nhiều giai đoạn được sử dụng.
Giai đoạn 1: Chọn tỉnh/thành phố
Danh sách khung mẫu là các CSYT thuộc 6 vùng kinh tế xã hội của Việt Nam. Từ danh sách khung mẫu lựa chọn số lượng các CSYT của từng vùng vào nghiên cứu theo phương pháp chọn mẫu PPS. Tại mỗi vùng, chọn ngẫu nhiên 1/3 số tỉnh/thành phố đưa vào nghiên cứu. Kết quả có 19 tỉnh/thành phố được chọn đại diện tham gia nghiên cứu.
Giai đoạn 2: Chọn CSYT tại các tỉnh/thành phố
Sau khi chọn tỉnh/thành phố theo giai đoạn 1, các CSYT tuyến tỉnh và huyện sẽ được lựa chọn đa dạng theo tỷ lệ các loại hình: công-tư, đa khoa-chuyên khoa, loại I,
II, III... Các CSYT xã/phường được lựa chọn ngẫu nhiên tại các tỉnh/thành phố được lựa chọn, tuy nhiên cần đảm bảo tỷ lệ CSYT xã/phường được chọn tương đồng với tỷ lệ chung của cả nước.
2.6. Biến số nghiên cứu
- Thu gom CTRYT: túi đựng chất thải, tuyến đường và thời điểm thu gom, xử lý sơ bộ chất thải khi thu gom, tần suất thu gom, cách thức thu gom CTLN và CTTT.
- Phân loại CTRYT: vị trí đặt bao bì, dụng cụ phân loại CTRYT, bản hướng dẫn cách phân loại, màu sắc của dụng cụ đựng CTRYT
2.7. Phương pháp thu thập thông tin - Phương pháp: quan sát trực tiếp
- Công cụ thu thập: Bảng kiểm đánh giá công tác quản lý chất thải tại CSYT (Theo Thông tư số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT ngày 31/12/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường)
2.8. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được làm sạch, nhập vào phần mềm Epidata 3.2 và phân tích bằng phần mềm SPSS 22.0.
2.9. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được Hội đồng đạo đức của Trường Đại học Y tế công cộng thông qua tại Quyết định số 349/2017/YTCC-HD3 ngày 31/8/2017.
III. KẾT QUẢ
3.1. Thực trạng phân loại chất thải rắn y tế của các cơ sở y tế tại Việt Nam
Đa số (gần 60%) các CSYT được khảo sát đều có bố trí vị trí đặt các dụng cụ phân loại CTRYT tại mỗi khoa/phòng và tại các vị trí này đều có dán hướng dẫn cách thu gom và phân loại chất thải. Các loại CTLN sắc nhọn, CTLN không sắc nhọn và chất thải thông thường không phục vụ mục đích tái chế được
các CSYT phân loại khá tốt với tỷ lệ lần lượt là 93,5%, 86,6% và 81,8%.
Trong khi đó, các loại chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao, chất thải giải phẫu, CTNH không lây nhiễm dạng rắn/lỏng, chất thải tái chế được phân loại kém hơn.
Các CSYT tuyến trung ương và tỉnh thực hiện phân loại CTRYT tốt hơn so với các
CSYT tuyến huyện và xã. Kết quả quan sát nhanh cho thấy một số CSYT tuyến huyện và xã sử dụng các loại túi, hộp không đúng theo quy định để đựng CTLN sắc nhọn. So với các CSYT tư nhân, các CSYT công lập có tỷ lệ thực hiện phân loại CTRYT cao hơn rất nhiều (Bảng 1).
Bảng 1. Thực trạng phân loại CTRYT tại các CSYT tại Việt Nam
Thực trạng phân loại CTRYT
CSYT phân theo tuyến CSYT phân theo công lập – tư nhân
Tổng (N=1.1 12) Tuyến
trung ương (N=42)
Tuyến tỉnh (N = 130)
Tuyến quận/
huyện (N=128)
Tuyến phường/
xã (N=812)
Công lập (N=104
6)
Tư nhân (N=66)
n % n % n % n % n % n % n % Mỗi khoa, phòng
có bố trí vị trí để đặt các bao bì, dụng cụ phân loại
CTYT
40 95,2 107 82,3 90 70,3 418 51,5 621 94,8 34 5,2 655 58,9
Tạị vị trí đặt bao bì, dụng cụ phân loại CTYT có hướng dẫn cách phân loại và thu gom chất thải
38 90,4 100 76,9 81 63,2 431 53,1 260 95,6 12 4,4 650 58,4
CTLN sắc nhọn được đựng trong thùng hoặc hộp
màu vàng
42 100 128 98,5 117 91,4 753 92,7 979 94,1 61 5,9 1.04 0 93,5 CTLN không sắc
nhọn được đựng trong túi/thùng lót
túi màu vàng
42 100 129 99,2 122 95,3 670 82,5 901 93,6 62 6,4 963 86,6 Chất thải có nguy
cơ lây nhiễm cao được đựng trong túi/thùng lót túi
màu vàng
16 38,1 43 33,1 9 7,0 0 0 128 92,8 10 7,2 68 6,1
Chất thải giải
phẫu được đựng 27 64,3 87 66,9 71 55,5 17 2,1 188 93,1 14 6,9 202 18,2
Thực trạng phân loại CTRYT
CSYT phân theo tuyến CSYT phân theo công lập – tư nhân
Tổng (N=1.1 12) Tuyến
trung ương (N=42)
Tuyến tỉnh (N = 130)
Tuyến quận/
huyện (N=128)
Tuyến phường/
xã (N=812)
Công lập (N=104
6)
Tư nhân (N=66)
n % n % n % n % n % n % n % trong 2 lần
túi/thùng lót túi màu vàng CTNH không lây
nhiễm dạng rắn được đựng trong
túi/thùng lót túi màu đen
40 95,2 88 67,7 59 46,1 228 28,1 400 96,4 15 3,6 415 37,3
CTNH không lây nhiễm dạng lỏng đựng trong các dụng cụ có nắp
đậy kín
18 42,9 57 43,8 33 25,8 87 10,7 180 92,3 15 7,7 195 17,5 CTTT không phục
vụ mục đích tái chế được đựng trong túi/thùng
màu xanh
42 100 127 97,7 120 93,8 621 76,5 849 93,3 61 6,7 910 81,8
CTTT cho mục đích tái chế được
đựng trong túi/thùng lót túi
màu trắng
40 95,2 105 80,8 77 60,2 356 43,8 554 95,8 24 4,2 578 52,0
3.2. Thực trạng thu gom chất thải rắn y tế của các cơ sở y tế tại Việt Nam
Phần lớn các CSYT được khảo sát đều thực hiện thu gom riêng chất thải lây nhiễm từ nơi phát sinh về khu vực lưu giữ chất thải trong khuôn viên CSYT (69,1%). Tuy nhiên chỉ có 33% CSYT có quy định tuyến đường thu gom và thời điểm thu gom CTLN phù hợp, tập trung ở các CSYT tuyến trung ương và tuyến tỉnh.
Các loại chất thải khác như chất thải nguy hại không lây nhiễm, chất thải có chứa thủy
ngân và CTYT thông thường được thu gom và lữu giữ tại khu vực riêng trong CSYT với tỷ lệ lần lượt là 55,5%, 16,3% và 33,1%. Chỉ có 5,6% CSYT thực hiện xử lý sơ bộ chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao trước khi thu gom về nơi lưu giữ riêng.
Nhìn chung, các CSYT tuyến xã có tỷ lệ thu gom CTRYT thấp hơn so với các CSYT tuyến trên và tỷ lệ các CSYT tư nhân thực hiện thu gom CTRYT thấp hơn so với các CSYT công lập.
Bảng 2. Thực trạng thu gom CTRYT của các CSYT tại Việt Nam
Thực trạng thu gom CTRYT
CSYT phân theo tuyến CSYT phân theo công lập – tư nhân
Tổng N=
1.112 Tuyến
trung ương (N=42)
Tuyến tỉnh (N
= 130)
Tuyến quận/
huyện (N=128
Tuyến phường
/xã N=812
Công lập (N=
1046)
Tư nhân (N=66
)
n % n % n % n % n % n % n % CTLN được thu
gom riêng từ nơi phát sinh về khu
vực lưu giữ
42 100 129 99,2 112 87,5 485 59,7 718 93,5 50 6,5 768 69,1 Túi hoặc thùng
đựng CTLN được buộc kín hoặc có
nắp đậy kín
42 100 129 99,2 120 95,2 709 87,3 944 94,4 56 5,6 1.000 90,1 CSYT có tuyến
đường và thời điểm thu gom CTLN phù
hợp
33 78,6 99 76,2 58 46,0 176 21,7 352 96,2 14 3,8 366 33 Chất thải có nguy
cơ lây nhiễm cao được xử lý sơ bộ trước khi thu gom về khu lưu giữ, xử
lý chất thải
14 33,3 42 32,3 6 4,6 0 0 174 96,1 7 3,9 62 5,6
Tần suất thu gom CTLN phát sinh
đúng quy định
42 100 121 95,3 74 63,2 591 83,6 324 94,7 18 5,3 860 86,9 CTNH không lây
nhiễm được thu gom, lưu giữ riêng tại khu vực lưu giữ
42 100 125 96,2 103 81,7 346 42,6 567 92,0 49 8,0 616 55,5 Chất thải chứa thủy
ngân được thu gom và lưu giữ riêng trong các vật liệu
phù hợp
23 54,8 59 45,4 43 34,1 56 6,9 170 93,9 11 6,1 181 16,3
CTYT thông thường phục vụ mục đích tái chế và không tái chế được
thu gom riêng
34 81 102 78,5 72 57,1 159 19,6 347 94,6 20 5,4 367 33,1
IV. BÀN LUẬN
Kết quả khảo sát cho thấy, gần 60%
CSYT có hướng dẫn phân loại chất thải tại các vị trí để đặt dụng cụ phân loại CTYT, trong đó tuyến xã chỉ đạt tỷ lệ 51,5%. Tỷ lệ này thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Phan Thanh Lam (52,3%) [4] nhưng cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Bá Tòng (44,3%) [5], Tô Thị Liên (0%) [1]. Nhiều CSYT tuyến xã thiếu các bản hướng dẫn do họ đã thực hiện dán trực tiếp tên của từng loại chất thải lên nắp của các thùng đựng chất thải nên không cần dán hướng dẫn phân loại chất thải theo quy định. Tỷ lệ phân loại CTLN sắc nhọn tại các CSYT trong nghiên cứu nói chung đạt 93,5%, tương đồng với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hương (93%) [6] nhưng lại thấp hơn so với tỷ lệ trong nghiên cứu của Phan Thanh Lam (97,7%) [4] và Đinh Quang Tuấn (100%) [7].
Kết quả quan sát cho thấy vẫn có một số CSYT tuyến huyện và xã sử dụng các hộp đựng, vỏ chai nước không có màu vàng hay dán nhãn cảnh báo theo quy định để đựng CTLN sắc nhọn. Cán bộ y tế lý giải rằng do thời điểm đó các CSYT này hết các hộp an toàn nên họ sử dụng các vỏ nhựa thay thế để tiết kiệm chi phí. Chỉ có 6,1% CSYT thực hiện phân loại chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao và tập trung chủ yếu ở các CSYT tuyến trung ương, tỉnh, huyện do loại chất thải này thường phát sinh từ các phòng xét nghiệm hoặc phòng thí nghiệm. Tỷ lệ CSYT thực hiện phân loại chất thải giải phẫu trong nghiên cứu chiếm 18,2%, trong đỏ tỷ lệ phân loại của tuyến xã chỉ chiếm 2,1%, thấp hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu của Phan Thanh Lam (27,9%) [4] và Nguyễn Bá Tòng
(68,3%) [5]. Điều này có thể được lý giải do tại các CSYT tuyến xã hiện nay không thường xuyên thực hiện các kỹ thuật liên quan đến sinh sản (đỡ đẻ) mà người dân chủ yếu thực hiện tại các CSYT tuyến cao hơn do vậy mà lượng chất thải giải phẫu phát sinh rất ít. Có thể thấy rằng việc phân loại chất thải tại nguồn rất quan trọng vì nếu phân loại sai sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các bước thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải sau này, làm gia tăng gánh nặng cho công tác QLCTYT.
Việc thu gom CTLN từ nơi phát sinh về khu vực lưu giữ riêng được các CSYT thực hiện khá tốt (69,1%). Việc thu gom riêng các loại CTLN sẽ góp phần rất lớn trong việc hạn chế nguy cơ lây nhiễm các mầm bệnh ra ngoài cộng đồng. Chỉ có 33% CSYT có tuyến đường vận chuyển và thời điểm thu gom CTLN phù hợp, thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hương (48,6%) [6] và Phan Thanh Lam (40,9%) [4] do những hạn chế về diện tích và cơ sở vật chất nên nhiều CSYT không thể bố trí được tuyến đường vận chuyển chất thải riêng, phải sử dụng chung với đường đi của bệnh nhân. Chỉ có 33,1% CSYT thực hiện thu gom riêng chất thải thông thường và chất thải tái chế do việc thu mua chất thải tái chế phát sinh từ CSYT tại một số địa phương còn gặp nhiều khó khăn, thậm chí tại một số địa phương không có công ty môi trường nào thu mua loại chất thải này, do đó các CSYT thường thu gom chung chất thải tái chế lẫn vào chất thải thông thường.
Nhìn chung, công tác phân loại và thu gom CTYT được thực hiện tương đối tốt ở các CSYT tuyến trung ương và tuyến tỉnh so
với tuyến huyện và tuyến xã. Lý giải cho sự khác biệt này một phần là do sự quan tâm, đầu tư của ngành y tế cho các CSYT chưa đồng bộ giữa các tuyến dẫn đến việc nhiều CSYT tuyến dưới thiếu các trang thiết bị cơ bản cho công việc phân loại và thu gom CTYT. Để cải thiện tình trạng trên, ngành y tế các địa phương cần có sự quan tâm đúng mức hơn nữa cũng như cần cung cấp đầy đủ các trang thiết bị cần thiết, đầu tư cơ sở hạ tầng cho các CSYT thực hiện tốt công tác phân loại, thu gom CTYT.
V. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy công tác phân loại, thu gom CTRYT tại các CSYT tại Việt Nam được thực hiện tương đối tốt. Chất thải lây nhiễm sắc nhọn, CTLN không sắc nhọn và chất thải thông thường là ba loại chất thải được phân loại tốt nhất (93,5%, 86,6% và 81,8%). Phần lớn các CSYT đều thực hiện thu gom riêng CTLN từ nơi phát sinh về khu vực lưu giữ chất thải (69,1%).
Tuy nhiên chỉ có 33% CSYT có quy định tuyến đường và thời điểm thu gom CTLN phù hợp. Chất thải tái chế thường không được các CSYT thu gom riêng với chất thải thông thường. Thực tế trên đòi hỏi ngành y tế cần quan tâm, đầu tư hơn nữa cho công tác phân loại và thu gom CTRYT, đặc biệt đối với các CSYT tuyến xã.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tô Thị Liên và cs. Thực trạng quản lý chất thải rắn tại 32 trạm y tế xã thuộc 8 tỉnh Việt Nam năm 2015. Tạp chí Y học dự phòng.
2016; 11 (184): 220-229.
2. Nguyen, D.L, Bui, T.X, Nguyen, T.H.
Estimation of Current and Future Generation of Medical Solid Wastes In Hanoi City, Vietnam. Int J Waste Resources. 2014; 4 (2):139.
3. Cục Quản lý môi trường y tế. Khảo sát đánh giá thực trạng cấp nước và vệ sinh môi trường tại trạm y tế. Báo cáo Dự án Hỗ trợ kỹ thuật tăng cường kiểm soát chất lượng nước. 2015.
4. Phan Thanh Lam và cs. Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế tại các trạm y tế thuộc Trung tâm Y tế huyện Gia Lâm, năm 2013. Tạp chí Y học thực hành. 2013; 7 (786): 48 – 52.
5. Nguyễn Bá Tòng. Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế tại các trạm y tế thuộc huyện Châu Thành, Đồng Tháp năm 2015. Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng. 2015: 145.
6. Nguyễn Thị Thanh Hương, Lê Thị Thanh Hương. Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế tại các trạm y tế thuộc Trung tâm Y tế Sóc Sơn năm 2017. Tạp chí Y học cộng đồng.
2018; 4 (45): 99-104.
7. Đinh Quang Tuấn. Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế, kiến thức, thực hành của cán bộ y tế trên địa bàn thành phố Việt Trì năm 2011.
Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng. 2011: 81.