• Tidak ada hasil yang ditemukan

thiếu máu cục bộ ở trẻ sơ sinh tại bệnh viện phụ sản cần thơ

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "thiếu máu cục bộ ở trẻ sơ sinh tại bệnh viện phụ sản cần thơ"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NÃO THIẾU OXY - THIẾU MÁU CỤC BỘ Ở TRẺ SƠ SINH TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN CẦN THƠ

Nguyễn Thị Ngọc Hà1*, Lê Hoàng Sơn2, Võ Thị khánh Nguyệt3 1. Bệnh viên Phụ sản thành phố Cần Thơ

2. Bệnh viện nhi đồng thành phố Cần Thơ 3. Trường Đại học Y dược Cần Thơ

* Email: [email protected]

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Ngày nay, biện pháp hạ thân nhiệt được chứng minh có hiệu quả trong điều trị HIE, giảm tử vong, giảm di chứng, giúp cải thiện tiên lượng lâu dài cho trẻ. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị HIE trên trẻ sơ sinh đủ tháng tại Bệnh viện phụ sản thành phố Cần Thơ từ năm 2018 đến 2019. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tất cả những trẻ sơ sinh đủ tháng được chẩn đoán HIE và điều trị tại khoa sơ sinh Bệnh viện Phụ sản Cần Thơ trong thời gian năm 2018 đến năm 2019. Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích. Kết quả: Điều trị cho 44 trẻ bị HIE, trong đó 22 trẻ sử dụng phương pháp hạ thân nhiệt chủ động. Tỷ lệ tử vong ở trên nhóm HIE (1/44) 2,3%, thời điểm HTN trung bình 3,6 ± 0,8 giờ (nhỏ nhất 2 giờ - lớn nhất 5 giờ). Điều trị hỗ trợ chống co giật (81,8%), hỗ trợ tim mạch (68,2%). Tình trạng lúc xuất viện 97,7% trẻ tỉnh táo, bú mẹ hoàn toàn, 100% không cần hỗ trợ hô hấp và tuần hoàn, 1/43 (2,3%) di chứng thần kinh ghi nhận phản xạ bú yếu, trương lực cơ tăng, co giật cục bộ, vòng đầu < -2SD.

Kết luận: Điều trị HIE Bệnh viện Phụ sản Cần Thơ bước đầu đã chứng minh hiệu quả.

Từ khóa: Bệnh não thiếu oxy - thiếu máu cục bộ, hạ thân nhiệt toàn thân, sơ sinh.

ABSTRACT

TREATMENT OF HYPOXIC - ISCHEMIC ENCEPHALOPATHY IN TERM NEWBORN INFANTS AT CAN THO OBSTETRICS AND GYNECOLOGY

HOSPITAL

Nguyen Thi Ngoc Ha1, Le Hoang Son2, Vo Thi Khanh Nguyet3 1. Can Tho Obstetrics and Gynecology Hospital

2. Can Tho Children's Hospital 3. Can Tho University of Medicine and Pharmacy Background: Today, hypothermia has been shown to be effective in treating HIE, reducing mortality, reducing sequelae, and improving long-term prognosis. Objectives: Assessment of HIE treatment results on term infants in Can Tho Obstetrics and Gynecology Hospital from 2018 to 2019. Meterials and methods: All full-term infants were diagnosed with HIE and treated at the neonatal department at Can Tho Obstetrics and Gynecology Hospital during 2018 to 2019. The cross-sectional descriptive study with analyzing. Results: Treatment for 44 infants with HIE, of which 22 infants used active hypothermia and 22 infants did not use active hypothermia. Rate of death in the HIE group was an average of 2,3%, the mean time of whole-body cooling is 3,6 ± 0,8 hours (ranging from 2-5 hours), 81,8% neonates had a treatment of seizures, cardiovascular support was 68,2%. At the time of discharge status of 97.7% neonates were awake, exclusive breastfed, 100% neonates did not require respiratory and circulatory, 1 of 43 neonates (2.3%) was recorded neurological sequelae, weak feeding reflex, muscle tone increased, local seizures, head circumference <-2SD. Conclusion: HIE treatment at Can Tho Obstetrics and Gynecology Hospital initially proved effective.

Key words: Hypoxic-ischemic encephalopathy, whole-body hypothermia, neonatal.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Ngày nay, có nhiều biện pháp chăm sóc sản khoa và sơ sinh để hạn chế trẻ tử vong cũng

(2)

như di chứng thần kinh trên bệnh não thiếu oxy – thiếu máu cục bộ ở trẻ sơ sinh (hypoxic ischemic encephalopathy: HIE). Đến nay, điều trị HIE ngoài điều trị hỗ trợ biện pháp hạ thân nhiệt được chứng minh có hiệu quả giảm tử vong, giảm di chứng, giúp cải thiện tiên lượng lâu dài cho trẻ [6]. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả điều trị HIE trên trẻ sơ sinh đủ tháng tại Bệnh viện phụ sản thành phố Cần Thơ từ năm 2018 đến 2019.

Mục tiêu nghiên cứu:

Đánh giá kết quả điều trị bệnh não thiếu oxy-thiếu máu cục bộ ở trẻ sơ sinh đủ tháng tại khoa Sơ sinh bệnh viện phụ sản Cần Thơ năm 2018-2019

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Đối tượng nghiên cứu

Tất cả những trẻ sơ sinh đủ tháng được chẩn đoán HIE và điều trị tại khoa Sơ sinh Bệnh viện Phụ sản Cần Thơ trong thời gian từ năm 2018 đến năm 2019.

Tiêu chuẩn chọn mẫu:

Theo hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh thường gặp ở trẻ em của Bộ Y tế (2016) 1, chẩn đoán HIE dựa vào 05 tiêu chuẩn sau:

- Suy thai cấp (nhịp tim thai bất thường, dịch ối có phân su,…).

- Apgar ≤ 5 điểm ≥ 5 phút .

- Toan chuyển hóa nặng (PH ≤ 7, hoặc BE ≥ 12 mmol/l, tăng axit lactic máu).

- Dấu hiệu thần kinh (co giật, lơ mơ, giảm/ tăng trương lực cơ, …) hay aEEG bất thường - Tổn thương ≥ 02 cơ quan: tim, phổi, thận, gan,…

Tiêu chuẩn loại trừ: Nhiễm trùng huyết nặng, dị tật bẩm sinh hệ thần kinh trung ương, bất thường nhiễm sắc thể (hội chứng Down, hội chứng Patau,…),…gia đình không đồng ý tham gia nghiên cứu.

Địa điểm và thời gian nghiên cứu: nghiên cứu được tiến hành tại bệnh viện phụ sản Cần Thơ từ tháng 04/2018 đến tháng 06/2019

2.2. Phương pháp nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích

Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: 44 trẻ sơ sinh thỏa tiêu chí chọn mẫu được đưa vào nghiên cứu trong khoảng thời gian 04/2018 đến tháng 06/2019

Nội dung nghiên cứu: Ghi nhận một số đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu: tuổi thai, giới, cân nặng, apgar. Đánh giá kết quả điều trị thông qua điều trị hạ thân nhiệt, điều trị hỗ trợ, sau đó ghi nhận:biến chứng điều trị, xuất viện, chuyển viện, tử vong, tình trạng lúc xuất viện và đánh giá mối liên quan giữa 2 nhóm có và không có hạ thân nhiệt.

2.3. Phương pháp xử lý số liệu

Số liệu được xử lý bằng chương trình SPSS phiên bản 18.0

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Báo cáo của chúng tôi dựa trên kết quả điều trị bằng biện pháp hạ thân nhiệt chủ động và điều trị hỗ trợ, trong đó có 22 trẻ hạ thân nhiệt chủ động (hạ thân nhiệt) và 22 trẻ không áp dụng biện pháp hạ thân nhiệt chủ động (không hạ thân nhiệt).

3.1. Đặc điểm sản khoa và hồi sức sơ sinh Bảng 1: Đặc điểm trẻ sơ sinh và hồi sức sơ sinh

Đặc điểm Tổng

Tuổi thai (tuần) 38,9 ± 1,2

(3)

Cân nặng lúc sanh (gam) 3.288 ± 401

Bé trai 25 (56,8%)

Apgar 1 phút

0 - 3 điểm (ngạt nặng) 41 (93,2%)

4 - 7 điểm (ngạt nhẹ) 3 (6,8%)

Apgar 5 phút

0 - 3 điểm (ngạt nặng) 3 (6,8%)

4 - 7 điểm (ngạt nhẹ) 41 (93,2%)

Nhận xét: Tuổi thai trung bình là 38,9 ± 1,16 tuần. Cân nặng lúc sinh là 3.288 ± 401 gam, bé trai chiếm 56,8%; sanh mổ chiếm 52,3%. Apgar 1 phút: có 93,2% ngạt nặng và 6,8% ngạt nhẹ.

Apgar 5 phút: có 6,8% ngạt nặng và 93,2% ngạt nhẹ.

3.2. Đánh giá kết quả điều trị

Bảng 2: Quá trình điều trị Điều trị hỗ trợ

Tổng (44 BN)

Hạ thân nhiệt (22 BN)

Không hạ thân nhiệt

(22 BN) p

n % n % n %

Thời điểm hạ thân nhiệt (giờ) 3,6 ± 0,8

(min: 2 – max: 5)

Hỗ trợ hô hấp Thở máy 15 34.1 9 40,9 6 27,3 > 0,05

Thở oxy 29 65.9 13 59,1 16 72,7

Chống co giật (Phenobarbital,

midazolam)

36 81,8 22 100 14 63,6

0,004

Không 8 18,2 - - 8 36,4

Thuốc tim mạch (dopamine, dobutamin, adrenallin)

30 68,2 21 95,5 9 40,9

0,001

Không 14 31,8 1 4,5 13 59,1

Huyết học

Truyền máu 2 4,5 1 4,5 1 4,5

> 0,05

Tiểu cầu 2 4,5 2 9,1 - -

Đông máu 2 4,5 2 9,1 - -

Nhận xét: Thời điểm hạ thân nhiệt trung bình là 3,6 ± 0,8. Tỷ lệ điều trị co giật, hỗ trợ tim mạch ở nhóm hạ thân nhiệt cao hơn so với nhóm không hạ thân nhiệt có ý nghĩa thống kê với p lần lượt là p = 0,004 và p = 0,001.

Bảng 3: Biến chứng trong quá trình điều trị Biến chứng

Tổng (n=44)

Có hạ thân nhiệt (n=22)

Không hạ thân nhiệt (n=22)

p

n % n % n %

Nhiễm trùng huyết 2 4,5 2 9,1 - - > 0,05

Viêm phổi 3 6,8 2 9,1 1 4,5

Tổn thương da - - - - - -

(4)

Nhận xét: Tỷ lệ bị biến chứng trong quá trình điều trị là 11,3% biến chứng này đa số có trong nhóm hạ thân nhiệt.

Bảng 4: Kết quả điều trị HIE Kết quả điều trị

Tổng (n=44)

Có hạ thân nhiệt (n=22)

Không hạ thân nhiệt

(n=22) p

n % n % n %

Kết quả Ra viện 43 97,7 21 95,5 22 100

> 0,05

Chuyển viện 0 0 0 0 0 0

Tử vong 1 2,3 1 4,5 0 0

Thời gian điều trị (ngày) Trung bình 14,5±9,7 17,1±13,1 11,8±2,3

Nhận xét : Tỷ lệ tử vong chung là 2,3%. Tỷ lệ ra viện là 97,7%. Nhóm hạ thân nhiệt có số ngày điều trị cao hơn nhóm không hạ thân nhiệt.

Bảng 5 : Tình trạng lúc ra viện Tình trạng lúc ra viện

Tổng (n=43)

Hạ thân nhiệt (n=21)

Không hạ thân nhiệt (n=22) p

n % n % n %

Tỉnh táo 42 97,7 20 95,2 22 100

> 0,05 Không cần hỗ trợ hô hấp, tuần hoàn 43 100 21 100 22 100

Phản xạ bú Tốt 42 97,7 20 95.2 22 100

Yếu 1 2,3 1 4.8 - -

Trương lực cơ Tăng 2 4,7 2 9.5 - -

Bình thường 41 95,3 19 90.5 22 100

Co giật Còn 1 2,3 1 4.8 - -

Không còn 42 97,7 20 95.2 22 100

Vòng đầu < -2SD 1 2,3 1 4.8 - -

Bình thường 42 97,7 20 95.2 22 100

Nhận xét: Tình trạng xuất viện khá tốt 97,7% trẻ tỉnh táo, 100% không cần hỗ trợ hô hấp, tuần hoàn. Tuy nhiên vẫn còn tỉ lệ nhỏ ở nhóm hạ thân nhiệt có phản xạ bú yếu 2,3%, trương lực cơ tăng 4,7%, co giật và vòng đầu < -2SD cùng là 2,3%.

IV. BÀN LUẬN

4.1. Bàn luận về đặc điểm sản khoa hồi sức sơ sinh

Chúng tôi điều trị 44 trẻ bị HIE, trong đó 22 trẻ sử dụng phương pháp hạ thân nhiệt và 22 trẻ không sử dụng phương pháp này. Tuổi thai trung bình là 38,9 ± 1,16 tuần; Cân nặng trung bình lúc sinh là 3.288 ± 401gram. Vậy các trẻ trong nhóm nghiên cứu đều có tốc độ tăng trưởng trong tử cung bình thường.

Apgar 1 phút 93,2% ngạt nặng và 6,8% ngạt nhẹ. Như vậy, vấn đề ngạt thiếu oxy ở nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là nặng. Sau khi hồi sức, apgar ở thời điểm 5 phút 6,8%

ngạt nặng và 93,2% ngạt nhẹ. Nghiên cứu chúng tôi tương đương tác giả Chiabi A và cộng sự (2013) [5] đánh giá apgar thời điểm 5 phút 6/90 (6,7%) ngạt nặng, 84/90 (93,3%) ngạt nhẹ. Tuy

(5)

nhiên, điểm số apgar đa phần không phản ánh chính xác mức độ HIE vì còn phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan và chủ quan trong đó quan trọng nhất là hồi sức sơ sinh việc cung cấp oxy rất quan trọng trong giai đoạn đầu đảm bảo oxy không quá cao gây hiện tượng co mạch trong đó quan trọng nhất là mạch não sẽ làm tăng đáng kể tổn thương não của trẻ như tác giả Kapadia VS (2013) [8]

nghiên cứu hồi cứu việc tăng oxy máu trong giờ đầu tiên sau sanh có 36/120 (30%) với PaO2 ban đầu > 100 mmHg có tỷ lệ mắc HIE cao hơn so với những trẻ không bị tăng oxy máu (58% so với 27%; p= 0,003). Trong số những trẻ sơ sinh bị HIE trung bình - nặng trong 6 giờ đầu đời, những trẻ bị tăng oxy máu có tỷ lệ kết quả hình ảnh cộng hưởng từ não bất thường cao hơn, phù hợp với tổn thương HIE so với những trẻ không bị tăng oxy máu (79% so với 33%, p=0.015). Song song với tăng oxy máu vấn đề giảm PaC02 máu cũng rất quan trọng như nghiên cứu Ming-Chou Chang và cộng sự (2017) [10] sự giảm PaC02 trong 12 giờ đầu sau sanh liên quan tử vong và chậm phát triển thần kinh. Điều này cho thấy hồi sức sơ sinh sau sanh của nghiên cứu của chúng tôi rất hiệu quả, giúp giảm đáng kể tổn thương não của trẻ tương đương giảm độ nặng của HIE [14].

4.2. Bàn luận về điều trị HIE

Thời gian vàng cho phương pháp hạ thân nhiệt là 6 giờ đầu sau sanh. Đây là thời gian cửa sổ để ngăn chặn não bị tổn thương chuyển sang chết tế bào [6]. Thời điểm bắt đầu hạ thân nhiệt trong nghiên cứu chúng tôi trung bình là 3,6 ± 0,8 giờ (Nhỏ nhất 2 giờ, lớn nhất 5 giờ). Như vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi, không có trường hợp nào vượt quá thời gian vàng.

Lúc nhập viện, tất cả bệnh nhân đều cần hỗ trợ hô hấp, trong đó tỷ lệ thở máy của nhóm hạ thân nhiệt, nhóm không hạ thân nhiệt lần lượt là 40,9% và 27,3% ; tỷ lệ thở oxy ở nhóm hạ thân nhiệt là 59,1% và nhóm không hạ thân nhiệt là 72,7% việc hỗ trợ hô hấp không có sự khác biệt giữa 2 nhóm. Điều cần chú ý trong quá trình hạ thân nhiệt đặc biệt trong thở máy theo tác giả Ming-Chou Chang và cộng sự (2017) [10] trong thời gian hạ thân nhiệt khi nhiệt độ cơ thể giảm 1°C thì tốc độ trao đổi chất giảm 5% - 8%, pH tăng 0,015; PaC02 và Pa02 giảm tương ứng 4%;

7%. Sự giảm quá mức PaC02 dẫn đến thay đổi của lưu lượng máu não đặc biệt là giảm tưới máu não, tác giả kết luận Pa02 > 200 mmHg, PaC02 < 20 mmHg trong 12 giờ đầu của cuộc đời có liên quan đến các kết quả bất lợi ở trẻ sơ sinh bị HIE. Do đó, trong điều trị đặc biệt trong thở máy nên chú ý giảm thông khí nhằm kiểm soát tốt nhất tránh giảm PaC02 cũng như không tăng Pa02 máu quá mức.

Chống co giật chiếm 36/44 (81,8%) trong đó nhóm hạ thân nhiệt 22/22 (100%) cao hơn nhóm không hạ thân nhiệt với p = 0,04 để kiểm soát co giật, chúng tôi sử dụng Phenobarbital truyền tĩnh mạch nếu chưa cắt được co giật còn phối hợp thêm midazolam. Theo Young L (2016) [15] phenobarbital cắt cơn co giật 27-50% đến thời điểm hiện tại thuốc này vẫn là thuốc đầu tay dùng cắt cơn co giật ở trẻ sơ sinh bị HIE [10].

Về điều trị hỗ trợ tim mạch có 30 ca (68,2%) trong đó nhóm hạ thân nhiệt 21/22 (95,5%) cao hơn nhóm không hạ thân nhiệt với p = 0,001 để hỗ trợ tim chúng tôi sử dụng Dopamin, dobutamin, adrenallin và phối hợp khi cần thiết. Việc vận mạch khi nhịp tim < 80 lần/phút, huyết áp thấp hay có giảm sức co bóp cơ tim được đánh giá qua siêu âm [2],[10]. Để đánh giá tổn thương cơ tim cũng như tiên đoán được khả năng tử vong do tổn thương cơ tim của trẻ HIE chúng ta dựa vào nồng độ Troponin T hs máu. Theo tác giả Joseph S và cộng sự (2018) [7] Tác giả sử dụng đường cong ROC có điểm cắt với giá trị Troponin T hs cho rối loạn chức năng cơ tim là 0,1145 ng/dL với độ nhạy 92,4% và độ đặc hiệu 94,1%. Nồng độ Troponin T hs tim cao hơn đáng kể, tương quan tích cực với việc tăng mức độ nặng HIE. Giá trị đường cong ROC bị cắt cho tỷ lệ tử vong là 0,505 ng/dL với độ nhạy 83,9% và độ đặc hiệu 96,6%. Nghiên cứu chúng tôi Troponin T hs là 0,3±0,8 ng/dL do đó rối loạn chức năng tim là cao nên việc dùng vận mạch là phù hợp. Chúng tôi có 1 ca tử vong với Troponin T hs 0,81 ng/dL lớn hơn giới hạn tử vong của Joseph S điều này

(6)

khó tránh khỏi.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 6 trường hợp truyền máu và yếu tố đông cầm máu chiếm 13,6%. Tỷ lệ truyền máu và các yếu tố đông cầm máu trong nghiên cứu của chúng ít hơn nhiều so với tác giả Pakvasa MA và cộng sự (2017) [11] chỉ định truyền hồng cầu trong nghiên cứu chúng tôi khi Hemoglobin < 9 g/dL, tiểu cầu < 50 nghìn/mm3, aPTT > 60 giây kèm có chảy máu, Fibrinogen < 1g/dL.

Tỷ lệ trẻ bị biến chứng trong quá trình điều trị là 11,3% (nhiễm trùng huyết là 4,5% và viêm phổi là 6,8%). Trong đó, tỷ lệ biến chứng ở nhóm hạ thân nhiệt cao hơn nhóm không hạ thân nhiệt vì nhóm hạ thân nhiệt có mức độ nặng hơn nên thời gian thở máy cũng như thời gian nằm viện kéo dài hơn gây nguy cơ nhiễm trùng cao hơn là phù hợp.

4.3. Bàn luận về kết quả điều trị HIE

Về kết quả điều trị, có 1 trẻ không đáp ứng với điều trị, tử vong vào ngày thứ 2. Tỷ lệ tử vong chung trong nghiên cứu của chúng tôi là 2,3% được xác định do: Viêm phổi hít phân su/ HIE nặng, viêm cơ tim cấp biến chứng tràn dịch màng ngoài tim + sốc tim. Tỷ lệ tử vong chỉ xảy ra ở nhóm hạ thân nhiệt chiếm 4,5% so với nhóm không HTN không có khác biệt với p > 0,50. Tử vong trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn trong nghiên cứu của Hồ Tấn Thanh Bình và Nguyễn Văn Thắng đều là 16,7% [2],[3]. Theo y văn, nhóm HIE trung bình có tiên lượng tử vong 10%

nhóm nặng tiên lượng tử vong là 60% [6],[13].

Tình trạng xuất viện khá tốt 97,7% trẻ tỉnh táo, 100% không cần hỗ trợ hô hấp, tuần hoàn.

Tuy nhiên, vẫn còn tỉ lệ nhỏ 1/44 (2,3%) ở nhóm hạ thân nhiệt có di chứng thần kinh với biểu hiện phản xạ bú yếu, trương lực cơ tăng, co gồng, ghi nhận teo não với vòng đầu < -2SD. Tỉ lệ này rất cao của tác giả Nguyễn Văn Thắng với phản xạ bú yếu, rối loạn trương lực cơ, co giật lần lượt là 37,3%; 33,3%; 9,8%. Chúng tôi đạt kết quả khá tốt như vậy có thể là do đã áp dụng được phương pháp HTN chủ động trong điều trị HIE.

Thời gian nằm viện trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là là 14,5±9,7 ngày. Thời gian nằm viện của nhóm hạ thân nhiệt cao hơn so với nhóm không hạ nhiệt. Kết quả này phù hợp với thực tế vì nhóm hạ thân nhiệt có tỷ lệ mắc HIE nặng lên đến 36,4% trong khi nhóm không hạ thận nhiệt chỉ có 4,5% mắc HIE nặng. Thời gian điều trị trong nghiên cứu của chúng tôi xấp xỉ với thời gian điều trị trung bình 15,0 ± 5,4 ngày của Hồ Tấn Thanh Bình (2012) [2] và Nguyễn Văn Thắng là 13,5±10,6 ngày [3].

V. KẾT LUẬN

Điều trị HIE Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ đã chứng minh hiệu quả. Tỷ lệ tử vong 2,3% và tỉ lệ di chứng đến thời điểm xuất viện là 2,3%.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Y tế (2016), Bệnh não thiếu oxy-thiếu máu cục bộ, Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh thường gặp ở trẻ em, Nhà xuất bản y học Hà Nội, tr. 233-237.

2. Hồ Tấn Thanh Bình và cộng sự (2012), “Làm lạnh toàn thân: phương pháp điều trị mới ở trẻ thiếu oxy thiếu máu cục bộ tại bệnh viện nhi đồng 1”, Tạp chí y học TP. Hồ Chí Minh, 16(2), tr. 102- 108.

3. Nguyễn Văn Thắng và cộng sự (2011), “Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh não do giảm oxy máu ở trẻ sơ sinh đủ tháng đẻ ngạt”, Tạp chí nghiên cứu y học, 73(2), tr.

48-52.

4. Apgar V (1966), “The newborn scoring system: Reflections and advice”, Pediatric Clinics of North America, 113, pp. 645–650

(7)

5. Chiabi A, et al (2013), “Risk Factors for Birth Asphyxia in an Urban Health Facility in Cameroon”

Iran J Neurol, 7(3), pp. 46–54.

6. Jacobs SE, et al (2013),”Cooling for newborns with hypoxic ischaemic encephalopathy”, Cochrane Database Syst Rev, 31(1):CD003311.

7. Joseph S et al (2018), “Cardiac Troponin-T as a Marker of Myocardial Dysfunction in Term Neonates with Perinatal Asphyxia”, Indian J Pediatr, 85(10), pp. 877-884.

8. Kapadia VS, et al (2013), “Perinatal asphyxia with hyperoxemia within the first hour of life is associated with moderate to severe hypoxic-ischemic encephalopathy”, J Pediatr, 163(4), pp: 949- 954.

9. Li C, et al (2017) “Prenatal and neonatal risk factors for perinatal arterial ischaemic stroke: a systematic review and meta-analysis”, Eue J N eurol, 24(8), pp. 1006-1015.

10. Ming-Chou Chang, et al (2017), “Therapeutic hypothermia for neonates with hypoxic ischemic encephalopathy”, Pediatris and Neonatology, 58, pp. 475-483.

11. Pakvasa MA et al (2017),“Observational study of haemostatic dysfunction and bleeding in neonates with hypoxic-ischaemic encephalopathy”, BMJ Open, 7(2), pp. 13787.

12. Sarnat HB, Sarnat MS (1976),“Neonatal encephalopathy following fetal distress. A clinical and electroencephalographic study”, Arch Neurol, 33 (10), pp. 696-705.

13. Shankaran S, et al (2010), “Neonatal encephalopathy:Treatment with hypothermia”, Neoreviews, 11: p. 85–92.

14. Vali P, et al (2015), “Neonatal resuscitation: evolving strategies”, Matem Health Neonatol Perinatol, 1 (4).

15. Young L, et al (2016), “Prophylactic barbiturate use for the prevention of morbidity and mortality following perinatal asphyxia”, Cochrane Database Syst Rev, (5): CD001240.

(Ngày nhận bài: 04/09/2019 - Ngày duyệt đăng bài: 03/10/2019)

Referensi

Dokumen terkait

- Tiêu chí chọn mẫu: Tất cả hồ sơ bệnh án điều trị nội, ngoại trú trong ba năm tại Bệnh viện Đa khoa Sài Gòn, thành phố Hồ Chí Minh có đầy đủ các loại bệnh tật, tử vong được chẩn đoán

Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu: nhận xét kết quả và biến chứng của sinh thiết kim lõi dưới hướng dẫn của siêu âm trong chẩn đoán khối u bụng tại Bệnh viện Nhi

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ U LÀNH TÍNH DÂY THANH BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI TREO THANH QUẢN TẠI BỆNH VIỆN TAI MŨI HỌNG CẦN THƠ NĂM 2016 - 2018 Nguyễn Thị Phương Lam*, Dương Hữu Nghị,

Phương pháp nhận bệnh và thu thập số liệu Từ tháng 1/2019 đến tháng 6/2020, chúng tôi tiến hành mời tất cả các sản phụ có chỉ định đặt vòng nâng CTC với CL ≤25 mm tại phòng khám Niệu

NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TIỀN SẢN GIẬT NẶNG TẠI KHOA SẢN-BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ Dương Mỹ Linh*, Bùi Quang Nghĩa, Phan Nguyễn Hoàng Phương Trường Đại

Xuất phát từ việc giúp nhà lâm sàng nhận diện sớm các biểu hiện cũng như điều trị kịp thời thiếu máu, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng

Bệnh nhân có khối u buồng trứng thực thể lành tính và ác tính được chẩn đoán và phẫu thuật tại khoa Phụ A5 bệnh viện Phụ Sản Hà Nội, được làm các xét nghiệm HE4, CA-125 trước mổ.. Sử

MÔ HÌNH BỆNH TẬT VÀ TỬ VONG TRẺ EM TẠI MỘT SỐ BỆNH VIỆN TỈNH VĨNH LONG TỪ NĂM 2010 - 2014 Bùi Quang Nghĩa1, Phạm Thị Tâm Trường Đại học Y Dược Cần Thơ *Email:[email protected]