TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG QUỐC TỀ'(2Jị ■■■1
KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG số TẠI MỘT SÔ QUỐC GIA KHU vực CHÂU Á
v Ẫ b ÀI học Đ ôi V ới việt nam
□ ThS. Tô Thị Diệu Loan *
*Ngân hàng TMCP Ngoại thương ViệtNam
Tóm tắt: Xu hướng phát triển ngân hàng số tạo ra những cơ hội mới nhưng cũng đặt ra những thách thức mới đối với ngân hàng và cơ quan quản lý. Sự phát triển nhanh chóng của sản phẩm và dịch vụ ngân hàng số khiến các quy định hiện hành về hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính - ngân hàng thể hiện những bất cập. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng chính sách tạo môi trường phát triển ngân hàng số tại các quốc gia khu vực châu Á và đánh giá thực trạng ngân hàng số tại Việt Nam, bài viết đưa ra một số khuyến nghị chính sách đối với cơ quan quản lý nhằm thúc đẩy và quản lý hiệu quả ngân hàng số trong thời gian tới.
Từ khóa:Phát triển ngân hàng số, chính sách, khung pháp lý.
EXPERIENCE IN THE DIGITAL BANKING DEVELOPMENT IN SOME ASIAN COUNTRIES AND LESSONS LEARNED FOR VIETNAM
Abstract: The development trend of the digital banking presents not only new opportunities for banks but also poses new challenges for banks and regulators. The rapid improvement of digital banking products and services makes the current regulation on providing financial and banking services that is revealing its inadequacy, unable to keep up with the market. Based on study of experience in making policies relating to create an environment for digital banking development in some Asian countries, as well as assessing the current situation of the digital banking in Vietnam, the article suggests recommendations to authorities to promote and effectively regulate the digital banking in the coming time.
Keywords:Digital banking development, policy, framework.
1. Quan điểm vế ngắn hàng sô và phát triển ngân hàng số
Chris (2014) xác định ngân hàng số là mô hình hoạt động của ngân hàng mà trong đó các hoạt động chủ yếu dựa vào các nền tảng với dữ liệu điện tử và công nghệ số là giá trị cốt lõi. Sharma (2016) tiếp cận khái niệm ngân hàng số là ngân hàng ứng dụng nền tảng công nghệ mới nhất đối với tất cả các chức năng và dịch vụ, ở mọi cấp độ trong hoạt động của ngân hàng. IBM (2015) xác định một
ngân hàng số thực sự được xây dựng dựa trên giá trị mà hầu hết các sản phẩm, dịch vụ được cung cấp bằng kỹ thuật số với cơ sở hạ tầng được tối ưu hóa cho các tương tác kỹ thuật số trong thời gian thực và văn hóa của ngân hàng chấp nhận sự thay đổi nhanh chóng của kỹ thuật số. CGAP (2021) định nghĩa ngân hàng số là tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính có giấy phép ngân hàng, áp dụng các công nghệ mới trong tất cả các hoạt động của mình thông qua kênh cung cấp chủ yếu là kỳ thuật số. Như vậy, các định nghĩa đều
đồng nhất ngân hàng số được hiểu là ngân hàng hoạt động dựa trên nền tảng công nghệ số ở tất cả các cấp độ, với các sản phâm dịch vụ được cung cấp bằng kỹ thuật số.
Theo McKinsey (2021), ngân hàng số có các đặc điểm như:
(i) Giao diện người dùng và hoạt động trên nền tảng kỹ thuật số (ít hoặc không phụ thuộc vào tài liệu giấy, giao dịch vật lý như chi nhánh, ATM, đại lý bán hàng hoặc xử lý thủ công), cung cấp trải nghiệm và giao diện người dùng chất lượng cao; (ii) Hoạt động hỗ trợ kinh doanh cốt lõi dựa trên kỹ
SỐ 13 I THÁNG 7/2022 I TẠP CHÍ NGÁN HÀNG 0
TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG QUỐC TẼ
thuật số, có các dịch vụ lõi nhỏ có thể định hình lại với các API cho phép cung cấp và đổi mới nhanh chóng; (iii) Thiết lập và điều hành như một công ty công nghệ: Mô hình hoạt động theo chiều ngang, giảm thiểu phân cấp, trao quyền cho nhân viên ở cấp độ cao, văn hóa kiêm tra và học hỏi cho phép phát triên các hệ thông, sàn phâm và kênh phân phối liên tục.
Dựa trên nguyên tắc và mục tiêu hoạt động của ngân hàng số, IBM (2015) phân loại ngân hàng số được phát triển theo 04 hình thức, bao gồm: (i) Xây dựng thương hiệu ngân hàng số mới trên nền tảng cơ sở hạ tầng hiện có của ngân hàng mẹ để tiếp cận nhóm khách hàng trẻ; (ii) Phát triển kênh phân phối ngân hàng số tập trung vào cung cấp các ứng dụng trực tuyến và di động mới tăng trải nghiệm người dùng được cung cấp bởi các tổ chức công nghệ, ngân hàng; (iii) Thành lập ngân hàng số mới hoạt động theo hình thức ngân hàng con độc
lập với ngân hàng mẹ sở hữu mô hình hoạt động linh hoạt nhằm đáp ứng khâ năng cung cấp sản phẩm dịch vụ tập trung vào giá trị khách hàng (phổ biến trong trường hợp ngân hàng mẹ có hệ thống kế thừa quy mô lớn khó chuyển đổi thành ngân hàng số);
(iv) Thành lập ngân hàng gốc kỹ thuật số tạo lập toàn bộ giá trị ngân hàng trên nền tảng cốt lõi công nghệ số, có thề có hoặc không có chi nhánh, khách hàng sẽ tương tác với ngân hàng thông qua các kênh kỳ thuật số.
Theo phân tích dựa trên 04 trụ cột: Bàng cân đối kế toán, sản phẩm, quan hệ khách hàng, kênh phân phối, CGAP (2020) đưa ra 03 mô hình kinh doanh của ngân hàng số được mô tả chi tiết trong Biểu đồ 1. Trong đó, mô hình ngân hàng số hoàn toàn có thể xuất phát từ các hình thức phát triền ngân hàng gốc kỳ thuật số (NuBank, N26, Monzo) hoặc xây dựng thương hiệu ngân hàng số mới (Marcus của Goldman Sachs,
Buddy Bank của UniCredit) hoặc phát triển kênh phân phối ngân hàng số của ngân hàng truyền thống (BBVA Compass, DBS);
mô hình ngân hàng thị trường thuộc về các ngân hàng gốc kỳ thuật số (Starling Bank, WeBank);
mô hình ngân hàng theo hình thức dịch vụ xuất phát từ các hình thức phát triển kênh phân phối ngân hàng số của ngân hàng truyền thống (BBVA) hoặc ngân hàng gốc kỳ thuật số được xây dựng bởi công nghệ tài chính - Fintech (Fidor Bank, Solaris Bank, Green Dot Bank).
Việc phát triển ngân hàng số mang lại nhiều lợi ích không chỉ với ngân hàng, khách hàng mà cả nền kinh tế.
Đối với ngân hàng, ngân hàng số giúp tăng hiệu quả hoạt động, tiết kiệm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh. Theo McKinsey (2014), ngân hàng có thể tăng tỷ suất EBITDA lên tới 40% bằng cách phát triển theo mô hình ngân hàng số. Ngân hàng số hồ trợ
Biêu đố 1: Mô hình kinh doanh cùa ngân hàng số
Băng câu đối kêtoán
Ngân hàng truyền thong
Ngân hàngsố hoàn toàn
Ngân hàng thị trường
Ngân hàng theo hình thức dịch vụ
(BaaS)
Sảnphàm ft ft ft ft ft ft ft ft ft ft ft
Quan hệ khách hàng Kênhphân phoi
(^1^)
ft ft ft
ftft ft ft ft ft ft ft ft
Tích hợp theo Loại bó hoàn Dựavào bên thứ Không quán lý chiều dọc và dựa toàn hoặc thuê ba đe cung cấp khách hàngnhằm hoàn toànvào các ngoài kẽ nil sản phẩm nhàm tăngsánphẩmvà giãipháp nội bộ phân phốivặt lý tăng lợi ích từ
khách hàng
dịch vụcung cấp Nguồn: CGAP (2020)
Q TẠP CHÍ NGÂN HÀNG I số 13 I THÁNG 7/2022
TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HANG QUỐC TẾọãgl
ngân hàng tiếp cận cơ sở khách hàng rộng hơn, tăng tương tác với khách hàng, hiểu sâu hơn về đặc điểm và hành vi tiêu dùng của khách hàng để mang lại trải nghiệm tốt nhất. Các chức năng hoạt động linh hoạt của ngân hàng số cũng giúp ngân hàng dễ dàng thích ứng trong điều kiện thị trường biến động. Trong 02 năm vừa qua, đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp cho thấy, giao dịch hình thức kỳ thuật số là biện pháp hiệu quả, đảm bảo hoạt động ngân hàng được an toàn không bị gián đoạn. Quan trọng nhất, phát triển ngân hàng số giúp ngân hàng có thể duy trì được vị thế trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) và sự tham gia của Fintech, công nghệ lớn (Big Tech) khiến sức ép cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngày càng lớn.
Đoi với khách hàng, ngân hàng số giúp đa dạng hóa sự lựa chọn, dễ dàng tiếp cận, chi phí rẻ. Ngân hàng số giúp giảm thiểu các rào cản tương tác giữa khách hàng và ngân hàng như khoảng cách địa lý, quy trình thủ tục, giấy tờ... khi khách hàng có thể truy cập 24/7 qua thiết bị số tất cả mọi dịch vụ ngân hàng. Nhờ khả năng tiếp cận dễ dàng, khách hàng cũng có thể dễ dàng lựa chọn và thay đối tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của cá nhân với chi phí hợp lý nhất. Ngân hàng số cũng giúp khách hàng có những trải nghiệm sử dụng dịch vụ tốt hơn, các sản phẩm dịch vụ được cá nhân hóa mang lại lợi ích tối đa cho khách hàng.
Đối với nền kinh tế, ngân hàng số giúp thúc đẩy kinh tế số. Ngân hàng số giúp khách hàng dễ dàng chuyển đổi trạng thái giữa tiền
Bảng 1: Chiến lược phát triển ngân hàng số ở một sô' quốc gia
Quốc gia Quy định cụ thể
Trung Quốc
-Khuôn khổ quy định về tài chính số kỹthuậtsố được ban hành năm 2015thiết lập khuônkhổ cho sự phát triển củatài chính số.
-Hướng dẫn dịch vụ ngân hàng số năm 2015 nhấn mạnh tẩm quan trọng của ngân hàng số với tài chính toàndiện, phân quyền quản lý:
+Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) chịutrách nhiệm liên quan đếncác hoạt động quản lýnói chungvà chủyếuchịu trách nhiệm giám sát cácdịch vụ thanh toán, hoạt động phòng,chống rửa tiền vàthông tin tíndụng.
+ ủy ban giám sát ngân hàngTrung Quốc (CBRC) chịu trách nhiệm giám sát hoạt động cho vayP2P,tài trợ cộng đổng và có trách nhiệmbảo vệ người tiêudùng.
+ Hiệp hội Côngnghiệp tài chínhđiện tửTrung Quốc (ACIFI)chịu trách nhiệmthúcđẩy hoạt độngcủa ngành.
Singapore
-Tẩmnhìn chiến lược thànhmột Quốc gia thôngminh dựa trên nền tảng xây dựngTrung tâm tài chính thông minh (SmartFinancial Center) từ năm2015 của Ngânhàng Trung ương Singapore (MAS).
Indonesia Triển khaitấm nhìn số hóa 2020 thúc đẩy nền kinh tế số từ năm 2015.
mặt và tiền điện tử thông qua hệ thống từ ATM đến đại lý ngân hàng, cừa hàng bán lẻ, cửa hàng tiện lợi... Nhờ đó làm giảm lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế, thúc đẩy tài chính toàn diện, tạo sự kết nối giữa các tổ chức tài chính, tạo điều kiện cho các dịch vụ tài chính kỹ thuật số và các hoạt động kinh tể số khác có cơ sở đe phát triển. Ngân hàng số cũng giúp tăng cường kết nối giữa quốc gia và thế giới.
2. Kinh nghiệm phát triển ngân hàng số tại một số quốc gia khu vực châu Á
2.1. Chiến lược phát triển ngân hàng so quốc gia
Chiến lược phát triên ngân hàng số tại các quốc gia hầu như không được thề hiện trong một chiến lược riêng biệt, mà được thể hiện lồng ghép trong các chương trình phát triển tài chính số, kinh tế số (Trung Quốc, Indonesia) hoặc quốc gia thông minh (Singapore).
Các quốc gia như úc, Singapore, Trung Quốc, Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan có xu hướng thiết lập chính sách linh
hoạt, tạo lập môi trường thân thiện cho phát triển dịch vụ Fintech, sáng tạo công nghệ dựa trên quan điểm coi đôi mới công nghệ là động lực chính tăng hiệu quả của hệ thống tài chính và mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. (Bảng 1)
2.2. Quy định cấp phép ngân hàng số
CGAP (2021) xác định 03 cách tiếp cận về quy định đối với ngân hàng số trên toàn cầu: (1) Giấy phép đặc biệt riêng cho các ngân hàng số song song với ngân hàng truyền thống; (2) cấp phép theo giai đoạn cho các ngân hàng số (hoặc cho tất cả các ngân hàng), theo đó, các ngân hàng số mới trải qua giai đoạn hoạt động bị hạn chế trước khi trở thành ngân hàng được cấp phép đầy đủ; (3) Không cấp phép riêng và không cấp phép theo từng giai đoạn cho các ngân hàng số.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đang áp dụng theo cách tiếp cận thứ ba, không cấp phép riêng và không cấp phép theo từng giai đoạn cho các ngân hàng số, ví dụ như tại Brazil (Banco Inter, Banco Dico, Banco Original,
SỐ 13 I THÁNG 7/2022 I TẠP CHÍ NGÂN HÀNG o
^^TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG QUỐC TÉ
Bảng 2: Quy định cấp phép ngân hàng ở một số quốc gia
Nguồn: Tông hợp cùa tác gia
Quốc gia Quy địnhcụ thể Kết quả
Quy định riêng cho ngân hàng
số
Hống Kông
Tháng 5/2018, Cơ quan tiền tệ HổngKông(HKMA) banhành Hướngdẫn cấp phépngân hàng ảo đáp ứng yêu cấutốithiểu trong Pháp lệnhngân hàng: Hoạt động dướihìnhthứcmộtngân hàng thành lập tại địaphương, có côngty mẹ cókhả năng và cam kếthỗ trợ ngânhàng, duy trìđịa điểm kinh doanh chính tại Hồng Kông (không cóchinhánh), cócác biện pháp quàn trị rủi ro thích hợp...
08 ngân hàng số đã được cấp phép: Airstar Bank, Ant Bank, Fusion Bank, Livi Bank, Mox Bank, Ping An OneconnectBank, WeLabBank và ZaBank.
Hàn Quốc
Năm2019, Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BOK) ban hànhquyđịnh cấp phépngân hàng số: Yêu cẩu vốn tối thiểu thấp hơn ngânhàngthương mại, giới hạn cao hơn đối vớicổ phầncủa cáccổđông không thuộc lĩnh vực tài chính, không chovay cổ đông chính.
03 ngân hàng trực tuyến hoàn toàn được cấpphép: Kakao Bank, K-Bank,Toss Bank.
Philippines
Năm2020,Ngân hàng TrungươngPhilipines (BSP) ban hành Thông tư số 1105 hướng dẫnthành lập ngânhàng số:Vốn hóa tối thiểu thấp hơn 50%
so với ngân hàng thương mại,khôngcó chinhánh vật lý hoặc dịch vụ lưu giữtài sảncó giá trị, ítnhất 01 thành viêncủa Hội đổngquản trị và cán bộquản lýcấpcaophải có tối thiểu 03 năm kinhnghiệmvà hiểu biết về kỹ thuật trong điềuhànhdoanh nghiệp lĩnhvựccông nghệhoặc thương mại điện tử.
06 ngân hàng sốđược cấp phép:
Overseas Filipino Bank, Tonik, UNOBank, Union Digital Bank, Gotyme, Maya Bank.
Đài Loan
Tháng 4/2018, ủy ban Giám sáttài chính ĐàiLoan (FSC) banhànhcác yêu cầuvé giấyphép ngân hàng ảo: Khôngcóchi nhánhvật lý, được đăng ký làmột công tyđạichúng, ítnhất 01 thànhviên của ban điều hành phảicó hơn05 nămkinh nghiệm tronglĩnh vựccông nghệ tài chính,thương mại điện tửhoặckinh doanh viên thông.
03 ngân hàng sốđượccấp phép:
Line Bank, Next Bank, Rakuten Bank.
Trung Quốc
Năm2015,10 bộ và ủy ban Chính phủTrung ương cùngban hành"Hướng dẫnthúc đẩy phát triểnlànhmạnh tài chính số" (Hướng dẫn DFS 2015):
Tập trung vàochovay cá nhân và doanh nghiệpnhỏ và vừa (SMEs), chỉ có thể quảnlý tàikhoản cấp2 và cấp 3 giớihạndịch vụ chủtàikhoản, hạn mứcgiao dịchvà không đượcchuyển khoản đến, vốn yêucáutối thiểu thấp hơnngân hàng thương mại thông thường,tỷ lệsở hữu cổđông tối đa 30%,yêu cẩuvề vốn và thanh khoản giống ngân hàng thương mại thông thường, khôngcó chinhánh vật lý.
05 ngân hàng sốđượccấp phép:
WeBank, MYBank, XWBank, Suning Bank,AIBank.
Cấpphép ngân hàng số theo giai đoạn
Malaysia
Tháng 12/2019, Ngân hàng Quốc gia Malaysia (BNM) ban hành khung pháp lýcho ngân hàng số: Các quy địnhđược nớilỏngso với ngân hàng thươngmại(chỉ cho phép có vốn cấp 1, không yêu cẩu bảotoàn vốn hoặc bộ đệm vốn, tỷlệ thanh khoản tối thiểu 25% nợ phải trả,không có yêu cầu kiểm tra stress-test,miên yêu cầutiếtlộcông khai...), giảm phạm vitàisản đàmbáo đượcchăp nhận.
Tối đa05 nămkểtừ khibất đầu hoạt động, tổng quy mô tài sảncủa ngân hàngsỗ không vượt quá 3tỷRM (727triệu USD), vốn yêu cầu tối thiểu 100 triệu RM (24,2triệuUSD). Saugiai đoạn này, ngân hàng số phảiđápứng yêu cầu như đối với ngân hàngthông thường.
Kế hoạchphát hành 05 giấy phép ngânhàngsố.
Singapore
Tháng6/2019, MAS công bốkhung pháp lý vớingân hàng số mới bao gổm: (i) Giấy phép ngân hàng số đấy đủ (Digital full bank - DFB)cho phép nhận tiềngửi cá nhân;(ii)Giấy phép ngân hàng số bán buôn cho phép phụcvụSME vàdoanhnghiệp khác nhưng khôngđược phépnhận tiền gửi từ cá nhân (trừ tiền gửicố địnhít nhất 250.000 SGD). Một DFBsẽ hoạt động theo hình thức hạn chế vớisốvốn thấp hơn trước khitiến tới hình thứchoạt động đầy đủ.
Điều kiện đểthànhlập DFB yêu cấu: Cá nhân/tổ chức đứng ra thànhlập phải cókinhnghiệm trongđiểu hành doanh nghiệp công nghệ/thương mại điện tử, DFB phải được thành lậptại Singapore, tuân thủ quytắcan toànnhưngân hàng thông thường,phảitham gia chươngtrìnhbảo hiểm tiển gửi do Tổngcông ty Bảo hiểmtiền gửi Singaporecung cấp.
Ngoài ra, ngân hàngsố không được truy cậpvào mạng lưới ATM,không chi nhánh,yêucầuvốn cao hơn ngân hàngthương mại thông thường.
02 ngân hàng số đẩy đủ (Sea Group, Grab Singtel Digitalb Bank) và 02 ngân hàng bán buôn kỹ thuật số (Ant Group, Greenland Financial Holdings + Linklogis Hong Kong + Beijing Co-operative Equity Investment Fund Management) được cấp phép.
Q TẠP CHÍ NGÁN HÀNG I sổ 13 I THÁNG 7/2022
TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG QUÓC TẾ(|S)
B3), Đức (DKB, ING Bank, N26, Norisbank, Comdirect), Nam Phi (Discovery Bank, Tyme Bank).
Cách tiếp cận này dựa trên quan điểm tạo ra giấy phép riêng cho ngân hàng số là thật sự không cần thiết bởi rủi ro tiềm ẩn của các ngân hàng số không khác biệt với các ngân hàng truyền thống khi sản phẩm và dịch vụ cung cấp tương tự nhau, chế độ giấy phép riêng cũng sẽ tạo phân biệt đối xử và có thề dẫn đến kinh doanh chênh lệch giá. Cách tiếp cận thứ hai cấp phép theo từng giai đoạn có thề phù hợp áp dụng với Fintech, ngân hàng truyền thống, ngân hàng gốc kỳ thuật số và các tố chức cung cấp dịch vụ tài chính khác nhằm khuyến khích sự tham gia của các thành phần vào lĩnh vực tài chính. Cách tiếp cận thứ nhất và thứ hai có thể được kết hợp để áp dụng đối với các ngân hàng gốc kỹ thuật số, đây là các cách tiếp cận phổ biến tại các quốc gia khu vực châu Á có thị trường ngân hàng số phát triển nhanh nhất. Mặc dù vậy, theo thống kê, các ngân hàng số thành công nhất không hoàn toàn thuộc các quốc gia có chế độ cấp phép riêng cho ngân hàng số. (Bảng 2)
Nghiên cứu các quy định cấp phép ngân hàng số của các quốc gia trên thế giới cho thấy, yêu cầu vốn đối với ngân hàng số không nhất thiết phải thấp hơn so với ngân hàng truyền thống, hầu hết yêu cầu không có chi nhánh ngân hàng vật lý và phải có ít nhất một địa điểm kinh doanh tại địa phương. Giấy phép ngân hàng số riêng có thể mở ra cơ hội tiếp cận thị trường cho những người tham gia mới khi việc cấp phép ngân hàng truyền thống bị hạn chế. Ngược lại, tại các quốc gia mà việc cấp phép đối với ngân
hàng truyền thống sằn có, những công ty công nghệ thường mua lại các ngân hàng truyền thống nhỏ và chuyển đổi thành ngân hàng số hoặc đơn giản là thêm các sản phẩm cho vay, thanh toán vào hệ sinh thái của các ngân hàng này.
Ví dụ, chi nhánh thương mại điện tử Shopee của Sea Group mua lại ngân hàng cho vay tại địa phương Bank Kesejahteraan Ekonomi với mục tiêu chuyển đổi thành ngân hàng số hoàn toàn.
2.3. Chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin hô trợ phát triển
Các quốc gia như Ấn Độ, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Indonesia, Trung Quốc tích cực thực hiện các giải pháp chính sách
Bảng 3: Chính sách xây dựng cơ sở hạ tẩng thông tin hỗ trợ phát triển tại một số quốc gia
Quốc gia Chính sách cụ thê’
Singapore
-Xây dựngcơ sở dữ liệu cá nhânquốc gia Mylnfo, hệ thống thanhtoán trực tuyến quốc gia, trung tâm tài chính thông minh (Smart Financial Centre) từnăm 2015.
- Xây dựng đểán đổi mới công nghệkhuvực tài chính (FSTI)trị giá 225 triệuSGDhỗ trợ sángtạo và phát triển.
Hàn Quốc
- Triển khai Hệ thống IDkỹ thuật số quốc gia bằng ảnh từ năm2015, Hệ thống thanh toánđiệntử GIROvới sự tham giacủa 18 ngânhàngvà54 Fintech,cho phép ứngdụng Open API.
Trung Quốc
-Thành lập Hiệp hội Công nghiệptài chính điệntử Trung Quốc (ACIFI) năm 2014.
- Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc(PBOC)đã cókế hoạch thiết lập nền tảng thanh toán bù trừ cho các giao dịch thanh toán trực tuyến trên
Internet, với tên gọi Wang'lian.
Ấn Độ
- Ban hành đạo luậtAadhaar 2016 vể đăng ký nhận dạngthôngtin cá nhân.
- Thúc đẩy việc thành lập Công tythanh toán Quốc giaẤn Độ với vai trò vận hành thống nhất các hệ thống thanh toán bán lẻ khácnhauở ẤnĐộ.
TháiLan
- Ngân hàng Trung ương Thái Lan đã ban hành Thông báo SorNorSor 7/2559 (8/2016) khuyến khích sử dụngKYC (KnowYour Customer) trên nển tảngsố (eKYC)để mở tài khoản tiềngửi và nhậntiền từ công chúng.
- Chính phủ đang trong giai đoạn xâydựng hệ thống thanh toán trực tuyến quốc gia.
Indonesia
-Triển khai thẻ định danh điện tửđối với công dân(e-KTP) từ năm 2011 xác thực danh tínhtrực tuyến quamã số định danh và trực tiếpqua dấu vân tay.
Malaysia
-Hệ thốngthẻ MyKadđược triển khaitừ năm 2001 với công nghệ xác thực chiptiếp xúc, kếthợp nền tảng chữkýsố,tíchhợp 08 dịch vụ trong đó 04 dịch vụ công (Chứngminh nhân dân,bằng láixe,giấy thông hành trong nước, sổ ybạ) và 04 dịch vụ tư nhân(ví điện tử, thẻ rút tiền tự động,thẻ Touch'nGo cho giao thông,thẻchữ ký số cho giaodịch điện tử).
Nguồn: Tòng họp của tác giả
để xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin hồ trợ cho sự phát triển của tài chính số bao gồm: Cơ sở dừ liệu trung tâm, dừ liệu công dân quốc gia bằng điện tử, tạo nền tảng cho triển khai xác thực định danh khách hàng điện tử (eKYC).
Trong đó, theo nghiên cứu thực tế triển khai tại các quốc gia, việc thiết lập hệ thống cơ sở dừ liệu cá nhân và hệ thống thanh toán trực tuyến quốc gia là các yếu tố quan trọng để ngân hàng số có thể phát triển. (Bảng 3)
2.4. Các chính sách hỗ trợ khác
Ngoài ra, các quốc gia có ngân hàng số phát triển còn thực hiện một loạt các chính sách hồ trợ khác nhằm thúc đấy ứng dụng
SỐ 13 I THÁNG 7/2022 I TẠP CHÍ NGÂN HÀNG
(Sj) TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG QUÓC TÊ
công nghệ trong lĩnh vực tài chính và hướng dần các hoạt động liên quan nhàm giam thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng số. Trong đó, quy định về eKYC, khung thử nghiệm pháp lý đều được chú trọng triển khai sớm tại hầu hết các quốc gia có thị trường ngân hàng số phát triển. (Báng 4)
2.5. Kêt quả phát triển ngân hàng so tại các quốc gia châu A
Giống như các khu vực khác, ngân hàng số tại châu Á phải đối mặt với áp lực cạnh tranh rất cao và nhiều ngân hàng số mới được thành lập đã không đu quy mô hoặc không tạo ra đủ lợi nhuận đế duy trì hoạt động. Mặc dù vậy, ngân hàng số tại khu vực châu Á được đánh giá khá thành công với 02 hình thức phát triển điển hình sau:
Đối với hình thức thành lập ngân hàng gốc kỳ thuật số mới:
WeBank và XWBank (Trung Quốc), Kakao Bank (Hàn Quốc) đã tạo được lợi nhuận tích cực sau 02 năm hoạt động, 05 ngân hàng số của Trung Quốc đều có lãi vào năm 2019 (ROE của WeBank là 28% và XWBank là 30%, cao hơn mức trung bình 11% của ngân hàng truyền thống). WeBank, MYBank, XWBank hiện giải ngân 10 triệu khoản vay cá nhân/
SME mỗi năm, mặc dù mỗi ngân hàng chỉ có 1.000 - 2.000 nhân viên, tỷ lệ nợ xấu duy trì quanh 1%.
Các ngân hàng số thành công ở khu vực châu Á thường hoạt động theo mô hình tập đoàn giúp mở rộng quy mô nhanh chóng và được sở hữu bởi một nhóm các tổ chức, ví dụ như: WeBank của Tencent, MyBank của Alibaba, Fusion Bank do Tencent & ICBC sở hữu, Standard Chartered Mox hỗ trợ bởi HKT, PCCW và
@ TẠP CHÍ NGÂN HÀNG I sổ 13 I THÁNG 7/2022
Bảng 4: Các chính sách hỗ trợ phát triển ngân hàng số tại một sô quốc gia
Quốc gia Quyđịnh cụthể
Singapore
- Ban hành thông tư hướng dẫn thắt chặt quản lývà giảm thiểu rủi ro trong quỵ trìnhKYC, như hướng dẫnquản lýrủi ro liênquan đến việc rửatiền và cung cấptài chínhcho hoạt độngkhủng bốbanhành tháng 6/2017yêu cầucác ngân hàngxây dựng quy trình,quy chê’ vể phânloại mức độ rủi ro vàxác thực danhtính khách hàng.
-Từ tháng11/2016, cẩm nang API đã được biênsoạn bởi MAS và Hiệp hội Ngân hàng Singapore để hướng dẫn triển khai API cho các đối tượng quan tâm.
-MAS chora mắt khung thửnghiệm pháp lý (Regulatory Sandbox)cho phép đăng kýthử nghiệmcác sảnphẩm công nghệ tài chính.
Hồng Kông - Khung thử nghiệmpháplý đối vớicôngnghệ tàichính đượcban hành bởiHKMA vào tháng 9/2016.
Trung Quốc
-Ban hànhQuy tắc về quản trị ngân hàng điện tử vàhướngdẫn về đánh giá an ninh củangân hàng điện tử.
- Ban hành Quytắc về Quản trị dịch vụ thanh toán được cungcấp bởi tổ chức phi tài chính (Quy tắc thanhtoán PBOC) và cácbiện pháp thựchiện cácquy định trongquản lý dịch vụthanh toán được cung cấp bởi các tổ chức phi tài chính (Biệnpháp thực hiệnquản trị hoạt độngthanh toán PBOC).
HànQuốc
-BOK khởiđộng chương trìnhthí điểm xãhộikhôngdùng tiền mặt vào năm 2017 giúp nâng caonhận thức về thanhtoán số và các giải pháp ngân hàng,
ẤnĐộ
- Quy trình nhận diện khách hàng KYC đãđược đưara trongLuật Phòng chống rửa tiền năm2002. Đếnnăm 2017, quytrìnhnàyđâ đượcnâng cấp lên thành eKYC cho phép thực hiện trêncác thiết bịdi động, thực hiện trựctuyến.KYC làquá trình nhậndiện khách hàng,ủy ban Chứng khoán và giao dịch Ấn Độ (Securitiesand Exchange Board of India, SEBI)đâđưa racáchướng dẫn theo Luật Phòng chốngrửatiềnnăm 2002đói với các tổ chứctàichính vàcác trung gian tài chínhvể việc áp dụngquytrình nhận diện kháchhàng KYC đối với khách hàngcủacác tổ chức tài chính này.
TháiLan
- Khung thử nghiệmpháp lýđược triển khai bởi BOT, Thôngbáo sốFPG 18/2562 cho phépcác ngân hàng thương mại thựchiện các dịch vụ liên quan đến côngnghệ thông tinđểhổ trợngân hàng số.
Malaysia - Ban hànhkhungpháp lý thử nghiệm trong lĩnhvực tài chínhvào tháng 10/2016.
Nguôn: Tổng hợp của tác gia
CtripFinancial. Tuy nhiên, một số ít ngân hàng số thành công vẫn hoạt động như một thực thể độc lập như Rakuten Bank tại Nhật Bản, Ant SME tại Hồng Kông, One Connect và WeLab tại Singapore.
Các ngân hàng truyền thống thường là những cồ đông chính tại các ngân hàng gốc kỹ thuật số mới với mục tiêu nắm bắt các phân khúc khách hàng mới, cạnh tranh với các đối thủ tiềm năng; đồng thời tạo ra phương
án dự phòng về công nghệ bù đắp cho cơ sở hạ tầng cũ. Ví dụ như: CITIC (Trung Quốc) sở hữu 70% A iBank, Standard Chartered sở hữu 65% Mox, BOC sở hữu 44% cổ phần tại LiviBank (Hồng Kông). Công ty phi tài chính, công ty viền thông (sở hữu nguồn dữ liệu phong phú và cơ sở khách hàng lớn) cũng là những cổ đông quan trọng tại các ngân hàng gốc kỹ thuật số thành công khác như:
Công ty đầu tư Korea Investment
& Securities sở hữu cổ phần
TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HANG QUỐC Tẽ C^Ì
trong KakaoBank (Hàn Quốc), ChungHwa Mobile là cổ đông chính của Next Bank (Đài Loan), Singtel họp tác với Grab để xin giấy phép ngân hàng Grab Singtel Bank (Singapore), Xiaomi có cô phần tại XWBank (Trung Quốc) và AirStar (Hồng Kông)...
Đối với hình thức phát triển kênh phân phối ngân hàng số:
Trong quá trình phát triển ngân hàng số, DBS (Singapore) được xem là ngân hàng số đầu tiên trên thế giới và là một trong những trường hợp chuyển đổi số thành công nhất từ trước đến nay. Từ một ngân hàng truyền thống, DBS đã trở thành công ty công nghệ vượt qua các ngân hàng khu vực, được nhiều chuyên gia đánh giá là ngân hàng số tốt nhất thế giới nhờ ứng dụng công nghệ thông minh, bảo mật được ưu tiên hàng đầu, sử dụng đơn giản qua các nền tảng công nghệ. Theo thông tin DBS cung cấp, phân khúc kỳ thuật số có tỷ lệ chi phí/thu nhập khoảng 34% thấp hơn 20% so với phân khúc truyền thống (54%).
Ngân hàng UOB (Singapore) cũng là một trong những trường hợp phát triển ngân hàng số thành công dựa trên xây dựng mô hình tích họp công nghệ tại chi nhánh cho phép khách hàng có thế sử dụng giao dịch tự động tại các quầy giao dịch của ngân hàng, họp tác với bên thứ 3 cung cấp dịch vụ đặt chồ trước, thanh toán tại các nhà hàng... giúp cung cấp tiện ích gia tăng cho khách hàng.
Tại Thái Lan, Ngân hàng Siam và Krung Thai là 02 ngân hàng có tốc độ chuyến đôi số nhanh nhất.
Trong đó, Siam Bank cho phép khách hàng tạo lệnh trước trên mobile và chỉ cần đến quầy giao dịch để scan mà không cần nhập lại thông tin, Krung Thai đang
thực hiện chuyển đổi đồng loạt trên các hệ thống quản lý thẻ, tích họp đa kênh, Mobile Banking, Internet Banking... nhằm đồng bộ trước khi chuyển sang hình thức hoạt động ngân hàng số.
3. Thực trạng phát triển ngân hàng sô tại Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi số. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), đến tháng 12/2020, số tài khoản cá nhân đạt 105,6 triệu tăng 35,5% so với cùng kỳ năm 2019, có trên 79 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán qua Internet, 45 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động, khoảng 20 ngân hàng thương mại triển khai dịch vụ QR Code, 39 tổ chức không phải là ngân hàng thương mại được NHNN cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Tổng số lượng thẻ lưu hành đến cuối quý III/2021 đạt 121 triệu thẻ (100 triệu thẻ nội địa và 21 triệu thẻ quốc tế), 318.053 ATM/POS trên cả nước (20.058 ATM tổng giá trị giao dịch 513,6 tỷ đồng, khoảng 280 nghìn POS tồng giá trị giao dịch 139 tỷ đồng).
Đến cuối năm 2020, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (TTĐTLNH) kết nối với 300 đơn vị thành viên thuộc 101 thành viên tham gia hệ thống, bao gồm:
Công ty cổ phần Thanh toán quốc gia Việt Nam (Napas), 64 đơn vị thành viên thuộc Kho bạc Nhà nước, 64 đơn vị thành viên là các đơn vị trực thuộc NHNN và 172 đơn vị thành viên thuộc 98 tổ chức tín dụng thành viên. Thống kê của NHNN cho thấy, trong năm 2020, năm 2021 giá trị giao dịch qua
các kênh TTĐTLNH, Internet, điện thoại di động, QR Code, thanh toán nội địa qua thẻ ngân hàng đều tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, đặc biệt số lượng giao dịch qua điện thoại di động tiếp tục tăng mạnh trong 3 tháng đầu năm 2021 có hơn 395 triệu giao dịch, tổng giá trị hơn 4,6 tỷ đồng, tăng lần lượt 78% và 103% so với cùng kỳ năm 2020 (số liệu tăng trưởng cả năm 2020 là 114,2% và 118,4% so với năm 2019); giao dịch qua QR Code 3 tháng đầu năm 2021 đạt 5,3 triệu món trị giá 4.479 tỷ đồng, tăng đến 83% về số lượng và 146% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020.
Các số liệu cho thấy, sự phát triển của các dịch vụ số đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng và được thúc đấy mạnh mẽ hơn trong thời gian qua bởi tác động của đại dịch Covid-19. (Biểu đồ 2)
Các ngân hàng Việt Nam đang nồ lực không ngừng trong cuộc đua chuyến đối số với hy vọng giành được lợi thế cạnh tranh và chiếm thị phần lớn hơn trên thị trường. Đẻ đạt được mục tiêu này, phần lớn các ngân hàng Việt Nam đã thực hiện hoặc đang trong quá trình xây dựng chiến lược chuyển đổi số. Theo thống kê của NHNN năm 2020, 95% ngân hàng thương mại đã và đang xây dựng hoặc có kế hoạch xây dựng chiến lược chuyển đổi số, trong đó 38% ngân hàng thương mại đã phê duyệt chiến lược chuyển đổi số hoặc tích họp trong chiến lược phát triến kinh doanh/công nghệ thông tin; 42% ngân hàng thương mại đang xây dựng chiến lược chuyên đổi số. Hầu hết các ngân hàng thương mại đều ứng dụng các giải pháp kỳ thuật, công nghệ mới trong hoạt động và cung ứng dịch vụ, trong đó có 9/19 nghiệp
SỐ 13 I THÁNG 7/2022 I TẠP CHÍ NGAN HÀNG @
chínhvàngànhàngquốctẻ
Biểu đồ 2: Cơ SỞ hạ tầng ngành Ngân hàng Việt Nam
Nguồn: NHNN
vụ đã được số hóa hoàn toàn (gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, thẻ ngân hàng, ví điện tử, chuyên tiền, quản lý nhân sự, kế toán - tài chính...). Ngoài ra, các giải pháp kỹ thuật, công nghệ mới như điện toán đám mây, phân tích dừ liệu lớn, tự động hóa quy trinh bằng Robot, trí tuệ nhân tạo, Blockchain, nhận biết và định danh khách hàng bằng phương thức eKYC... được các ngân hàng thương mại ứng dụng mạnh mẽ trong các hoạt động nghiệp vụ và cung ứng sản phẩm, dịch vụ.
Bên cạnh đó, việc hợp tác giữa ngân hàng thương mại và các công ty Fintech thời gian qua đã góp phần mở rộng hệ sinh thái số, đem lại trải nghiệm và nhiều lợi ích thiết thực cho khách hàng.
Nhiều ngân hàng thương mại đã xây dựng kho dừ liệu, hạ tầng số tập trung, chuẩn hóa, cho phép chia sẻ, tích hợp tạo hệ sinh thái số trên nhiều ngành, lĩnh vực như hệ sinh thái Mobile Banking kết nối với dịch vụ công, tài chính, viền thông, điện lực, giao thông, y tế, mua sắm hàng hóa, dịch vụ trực tuyến...
Nhìn chung, các ngân hàng Việt Nam đang triển khai các dịch vụ ngân hàng số với 02 cách tiếp cận cơ bản sau đây:
Một là, số hóa phân đoạn kinh doanh nhất định, các quy trình nội bộ và các kênh phân phối sản phẩm dịch vụ: Các ngân hàng theo hướng tiếp cận này chú trọng đổi mới hệ thống ngân hàng di động, áp dụng các giải pháp eKYC, thanh toán bang QR Code, trợ lý ảo/Chatbot và trung tâm hỗ trợ khách hàng 24/7, tự động hóa quy trình nội bộ (hệ thống giao dịch thời gian thực trực tuyến, ứng dụng Robot, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu của bên thứ ba trong quản trị rủi ro), số hóa cơ sở dừ liệu thông tin và sử dụng công nghệ vào các công cụ như kho dữ liệu lớn, thu thập dữ liệu tự động, điện toán đám mây, phân tích dữ liệu.
Các ngân hàng này hoạt động trên nền tảng đa kênh để đảm bảo trải nghiệm khách hàng trở nên nhất quán. Một số ngân hàng điển hình có thể kể đến là Vietcombank với mô hình kinh doanh số (VCB Digibank), TPBank triển khai Live Bank giúp khách hàng đăng
ký vân tay, nhận diện khuôn mặt và định danh điện tử, VIB ứng dụng trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn vào quy trình phát hành thẻ tín dụng dành riêng cho mua sắm trực tuyến Online Plus, Techcombank chú trọng phát triển trải nghiệm khách hàng trên ngân hàng trực tuyến.
Hai là, kết hợp số hóa với sự phát triển của ngân hàng số độc lập: Một số ngân hàng vừa số hóa các phân đoạn kinh doanh, quy trình nội bộ và kênh phân phối đồng thời cũng phát triển thương hiệu ngân hàng số độc lập. Ví dụ điên hình có thể ke đến là VPBank với sự ra mắt của ngân hàng số Yolo sau Timo, OCB ra mắt ngân hàng số OCB Omni.
Tuy nhiên, sự phát triển ngân hàng số tại Việt Nam hầu hết theo hình thức phát triển kênh phân phối số và dừng lại ờ cấp độ số hóa một phần mô hình kinh doanh ngân hàng truyền thống (chủ yếu trong lĩnh vực thanh toán, sản phẩm dịch vụ được số hóa chủ yếu hướng đến đối tượng là khách hàng cá nhân, số hóa một phần quy trình nội bộ giảm thiểu xử lý giấy tờ chứ chưa đạt được mức tự động hóa), các công nghệ mới như Blockchain, open API... chưa được ứng dụng trong các ngân hàng thương mại do thiếu khung pháp lý thử nghiệm để triển khai và cơ sở hạ tầng hiện tại của ngành tài chính chưa cho phép. Trong khi đó, hình thức phát triển mô hình ngân hàng số mới như Timo, Yolo còn rất hiếm và đang ở giai đoạn sơ khai, chưa triển khai được các chức năng cung cấp sản phấm dịch vụ tài chính đầy đủ, quy mô hoạt động còn rất nhỏ. Xét từ góc độ chính
TẠP CHÍ NGÂN HÀNG I số 13 I THÁNG 7/2022
sách quản lý, thực trạng trên xuất phát từ các nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, khung pháp lý còn chưa đầy đủ: về chính sách chung, Chính phủ và các cơ quan quản lý đang hồ trợ và khuyến khích ngành tài chính - ngân hàng áp dụng các công nghệ tiên tiến, bước đầu thiết lập hạ tầng pháp lý cho việc triển khai ngân hàng số như:
Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt, Quyết định số 35/2006/
QĐ-NHNN ngày 31/7/2006 của Thống đốc NHNN ban hành quy định về các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng điện tử, Nghị định số 35/2007/NĐ-CP ngày 08/3/2007 của Chính phủ về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng, Quyết định số 2545/QĐ-TTg ngày 30/12/2012 của Thủ tướng Chính phù phê duyệt Đề án phát triến thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2019 - 2020, Thông tư số 16/2020/TT-NHNN ngày 04/12/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/
TT-NHNN ngày 19/8/2014 của Thống đốc NHNN hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, cho phép mở tài khoản thanh toán cá nhân bằng eKYC, Nghị quyết số 100/NQ-CP ngày 06/9/2021 của Chính phủ thông qua đề nghị xây dựng Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh quy định và hướng dẫn cụ thể về: giao dịch
điện tử, thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng bằng phương thức điện tử. Đặc biệt, hệ thống pháp lý hoàn toàn chưa có quy định liên quan đến triển khai cung ứng các sản phẩm dịch vụ theo mô hình ngân hàng số hoặc áp dụng các quy trình, phương thức thực hiện mới trong cung ứng dịch vụ liên quan tới cơ chế thử nghiệm có kiểm soát.
Ngoài ra, các hoạt động của công ty cung ứng giải pháp Fintech, cho vay ngang hàng (P2P lending), mô hình thanh toán mới, chuyển tiền xuyên biên giới, chia sẻ dừ liệu người dùng qua giao diện lập trình ứng dụng mở (Open APIs) hay cơ chế chia sẻ và khai thác thông tin người dùng cho mục đích phát triển dịch vụ ngân hàng; quy định liên quan tới lưu trữ thông tin... đều chưa có quy định pháp lý cụ thể để điều chỉnh.
Thứ hai, thiếu hụt về chính sách và quy định hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển ngân hàng số: Hiện nay, thói quen sử dụng tiền mặt còn phổ biến, các dịch vụ tài chính số hầu như ít được sử dụng tại khu vực nông thôn. Trong khi đó, Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 1813/
QĐ-TTg ngày 28/10/2021 và kế hoạch triển khai thực hiện được Thống đốc NHNN ban hành theo Quyết định số 2006/QĐ-NHNN ngày 17/12/2021. Việc thiếu hụt quy định về cơ chế phối hợp với Fintech cũng gây khó khăn cho sự hợp tác giữa Fintech và ngân hàng trong phát triển các dịch vụ ngân hàng số.
Thứ ba, thách thức về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin: Như đã phân tích, cơ sở dừ liệu cá nhân quốc gia là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển ngân hàng số; tuy nhiên, Việt Nam mới đang trong quá trình xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGDC) với mục tiêu trong năm 2022 hoàn thành tích họp, cung cấp dịch vụ xác minh chứng minh nhân dân 09 số với căn cước công dân. Các ngân hàng thương mại chưa thể kết nối, khai thác nguồn dữ liệu này để phục vụ định danh khách hàng. Bên cạnh đó, mức độ kết nối Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia (CIC), cơ sở dữ liệu doanh nghiệp các ngành với hệ thống quản trị rủi ro, đánh giá tín dụng của các ngân hàng thương mại còn hạn chế. Ngoài ra, thách thức còn đến từ thiếu hụt sự đồng bộ và chuẩn hóa hạ tầng kỹ thuật giữa ngành Ngân hàng và các ngành lĩnh vực khác nhằm tạo kết nối liên thông, tích hợp liền mạch đế hình thành hệ sinh thái số.
4. Một số khuyến nghị đối với các ctí quan quản lý
Một là, việc hoàn thiện khung pháp lý cho phát triến ngân hàng số cần được chú trọng và đẩy nhanh tiến độ, trước mắt cần ưu tiên các quy định liên quan đến thử nghiệm trong lĩnh vực tài chính, eKYC. Ngoài ra, NHNN cũng cần rà soát sửa đổi tạo điều kiện định danh, xác thực điện tử trong ngành Ngân hàng; rà soát văn bản hướng dẫn về lưu trừ, bảo vệ và chia sẻ dừ liệu, hướng dẫn kết nối với CSDLQGDC để phục vụ cho eKYC khách hàng;
sửa đổi Thông tư số 39/2016/
sỗ 13 I THÁNG 7/2022 I TẠP CHÍ NGAN HÁNG Q