• Tidak ada hasil yang ditemukan

Thực trạng về chu kỳ đánh giá thành tích nhân viên

Dalam dokumen KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (Halaman 107-110)

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ SỬ

2.2 Thực trạng tình hình quản lý và sử dụng nhân sự tại Công ty TNHH

2.2.5 Thực trạng công tác đánh giá mức độ hoàn thành công việc tại Công ty 86

2.2.5.3 Thực trạng về chu kỳ đánh giá thành tích nhân viên

94

7,0 ≤ Gtb ≤ 8,5: Nhân viên được đánh giá là tốt, xếp loại A

5,5 ≤ Gtb ≤ 7,0: Nhân viên được đánh giá là trung bình, xếp loại B Gtb < 5,5: Nhân viên được đánh giá là yếu , xếp loại C

Bảng 2.14: Mẫu đánh giá nhân viên bằng phương pháp định lượng Nhân viên: Lê Thúy Quỳnh

Chức vụ: Trưởng phòng kinh doanh

Tiêu chí Hệ số (Hi) Điểm đánh giá (Gi)

Mức độ hoàn thành công việc 3 9

Tính tiết kiệm trong công việc 2 8

Mức độ an toàn lao động 1 10

Áp dụng công thức tính điểm trung bình ta có:

Gtb = 3×9 + 2×8 + 1×10 3+2+1 = 53

6 = 8,83

Như vậy, nhân viên Lê Thúy Quỳnh được đánh giá là hoàn thành xuất sắc yêu cầu công việc, đáp ứng đủ 3 tiêu chí hoàn thành – an toàn – tiết kiệm.

Với điểm số của mình, chị Quỳnh có cơ hội được khen thưởng hoặc làm căn cứ xét tăng lương vào cuối mỗi kỳ.

95

là những nhiệm vụ mới, phát sinh thêm trong quá trình làm việc do tính chất công việc và những sự thay đổi bất ngờ. Chính vì vậy ngoài những nhiệm vụ được ghi trên bản mô tả công việc, còn có thêm một căn cứ khác đánh giá đó là tiêu chí về khối lượng công việc dựa trên phiếu giao nhiệm vụ cá nhân.

Theo vậy, Ban lãnh đạo Công ty yêu cầu trưởng mỗi Phòng ban phải phân chia khối lượng công việc thành từng mảng nhỏ và giao cho nhân viên thực hiện trong tháng. Kết quả đánh giá theo tháng được tổng hợp lại, theo dõi và làm căn cứ cho mục đích đánh giá dài hạn, làm căn cứ cho các quyết định về nhân sự.

Chu kỳ đánh giá theo nửa năm (6 tháng)

Dựa trên các kết quả hàng tháng, trưởng các Phòng ban tập hợp đánh giá theo định kỳ 6 tháng 1 lần, căn cứ vào các tiêu chuẩn đã xây dựng và bản kế hoạch cá nhân của người lao động. Đối với chu kỳ đánh giá theo 6 tháng, có 2 hình thức đánh giá là đánh giá theo phòng và đánh giá cá nhân.

- Đánh giá theo phòng

Dùng để đánh giá chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 : 2000 từ đó làm cơ sở cải tiến chất lượng. Phương thức đánh giá dựa trên mục tiêu KPI xây dựng trước. Công tác đánh giá phòng sẽ làm căn cứ để đánh giá năng lực của trưởng phòng.

- Đánh giá cá nhân

Bao gồm đánh giá thành tích thực hiện công việc và đánh giá năng lực của nhân viên, kết hợp với các tiêu chí kể trên. Đánh giá thành tích thực hiện công việc áp dụng đối với các cấp quản lý và toàn bộ nhan viên trong Công ty. Kết quả đánh giá sau mỗi kỳ được đánh giá dựa trên kế hoạch công việc được giao cho mỗi cá nhân. Việc đánh giá năng lực chỉ áp dụng đối với cấp quản lý và nhân viên, không áp dụng việc đánh giá này với bảo vệ, lao công, giao vận,... để đảm bảo tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí đánh giá.

96

Chu kỳ đáng giá theo năm

Thực chất đây là tổng kết lại của 2 chu kỳ đánh giá 6 tháng đầu năm và 6 tháng cuối năm, làm căn cứ tính điểm thưởng cho xu hướng tiến bộ của nhân viên. Sau một thời gian điều tra thống kê, em đã thành lập một bảng nhận xét về kết quả đánh giá thành tích thực hiện công việc của công ty và tiến hành điều tra 30 người lao động như sau:

Bảng 2.15: Hiệu quả công tác đánh giá thành tích thực hiện công việc tại Công ty TNHH Phát triển thương mại Hợp Lực

STT Câu hỏi nhận xét

Số người đánh giá cho mức độ Điểm trung bình MĐ1 MĐ2 MĐ3 MĐ4 MĐ5

1 Anh/chị có đồng ý với tiêu chí

đánh giá không? 0 2 1 22 5 4

2 Anh/chị có đồng ý với

phương pháp đánh giá không? 2 3 2 19 4 3,67 3 Anh/chị có đồng ý với chu kỳ

đánh giá không? 0 2 2 16 10 4,13

4 Công tác đánh giá có công

bằng, chính xác không? 1 2 4 22 1 3,67

5

Công tác đánh giá có giúp anh/chị nâng cao hiệu quả công việc hay không?

0 2 2 23 3 3,9

Trong đó:

Mức độ 1: Rất không hợp lý Mức độ 2: Không hợp lý

Mức độ 3: Không hợp lý nhưng vẫn chấp nhận được Mức độ 4: Hợp lý

Mức độ 5: Rất hợp lý

97

Qua bảng khảo sát, theo tính toán cho thấy số điểm trung bình của kết quả công tác đánh giá dao động từ 3,67 đến 4,13, so với số điểm cao nhất (nếu tất cả 30 người đều chọn mức độ 5) thì số điểm đánh giá của nhân viên về công tác đánh giá này là khá cao. Tuy nhiên vẫn còn một vài ý kiến không tốt về công tác đánh giá thành tích thực hiện công việc tại Công ty, điều này đồng nghĩa với việc thiếu tính chính xác và khách quan trong quá trình đánh giá. Công ty nên có những giải pháp cải thiện vấn đề này.

2.2.5.4 Thực trạng việc sử dụng kết quả đánh giá ảnh hưởng đến hiệu quả

Dalam dokumen KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (Halaman 107-110)