CHƯƠNG 1.LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ NHÂN LỰC VÀCHẾ
2.1. Tổng quan về Công ty lưới điện cao thế miền Bắc- Chi nhánh lưới điện
2.1.2. Qúa trình hình thành và phát triển
37 CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ TẠI CÔNG TY
LƯỚI ĐIỆN CAO THẾ MIỀN BẮC- CHI NHÁNH LƯỚI ĐIỆN CAO THẾ HẢI PHÒNG
2.1. Tổng quan về Công ty lưới điện cao thế miền Bắc- Chi nhánh lưới điện
38
Điện khí Đông Dương của Pháp đầu tư xây dựng năm 1892 với công suất thiết kế 5,5 MW.
Khi tiếp quản Thành phố vào ngày 13/5/1955, ngành điện Thành Phố có Nhà máy điện Hải Phòng (bao gồm bộ phận bán điện ở Vườn hoa và xưởng phát điện Cửa Cấm). Tổng số CBCNV là 443 người (xưởng Cửa Cấm: 296 người, bộ phận Vườn hoa: 147 người).
- Năm 1961 Xưởng phát điện của Nhà máy xi măng Hải Phòng được tách ra khỏi Nhà máy và sát nhập vào Nhà máy điện Hải Phòng. Lúc này nhà máy có 2 xưởng phát điện là Cửa Cấm và Thượng Lý.
- Đầu năm 1963 Nhà máy điện Hải Phòng được tách ra làm 2 đơn vị: Nhà máy điện Hải Phòng và Sở quản lý phân phối điện khu vực 2.
+ Nhà máy điện Hải Phòng được tổ chức trên cơ sở 2 phân xưởng phát điện Cửa Cấm và Thượng Lý.
+ Sở quản lý và phân phối điện khu vực 2 được tổ chức trên cơ sở bộ phận kinh doanh bán điện, PX đường dây và bộ phận xây dựng đường dây. Sở có nhiệm vụ quản lý vận hành lưới điện và cung cấp điện cho 3 tỉnh (Hải Phòng, Hải Dương và một phần huyện Gia Lương tỉnh Bắc Ninh).
- Năm 1966 để phù hợp với tình hình chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, Nhà máy điện Hải Phòng lại được tách ra làm 2: Nhà máy điện Cửa Cấm và Nhà máy điện Thượng Lý.
- Năm 1967 Nhà máy điện Cửa Cấm bị giặc Mỹ phá huỷ. Bộ phận còn lại của Nhà máy được nhập vào Nhà máy điện Thượng Lý và gọi là Nhà máy điện Hải Phòng.
- Năm 1974 tại mặt bằng Nhà máy điện Cửa Cấm, xây dựng 8 máy Diezel z66 và thành lập Nhà máy điện Diezel Cửa Cấm trực thuộc Công ty điện lực 1.
Đến tháng 1/1972 Nhà máy Diezel Cửa Cấm được sát nhập vào Sở quản lý và phân phối điện khu vực 2 và tổ chức thành PX Diezel thuộc Sở.
39
- Năm 1978 việc quản lý lưới điện và cung cấp điện cho tỉnh Hải Dương được chuyển giao cho tỉnh Hải Hưng, Sở còn nhiệm vụ quản lý lưới điện và cung cấp điện cho thành phố Hải Phòng nên Sở được đổi tên là Sở quản lý và phân phối điện Hải Phòng, và đến tháng 5/1981 đổi tên gọi là Sở điện lực Hải Phòng.
- Tháng 8/1984 do thiết bị lò máy quá cũ, vận hành kém hiệu quả nên Nhà máy điện Hải Phòng ngừng hoạt động và được sát nhập vào Sở điện lực Hải Phòng.
- Tháng 3/1996 theo quyết định của Bộ Công nghiệp, Sở Điện lực Hải Phòng chuyểngiao chức năng quản lý Nhà nước về điện cho Sở công nghiệp Thành phố. Sở chỉ làm nhiệm vụ quản lý sản xuất – kinh doanh điện năng trên địa bàn thành phố nên được đổi tên thành Điện lực Hải Phòng.
Mô hình tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất hiện nay của Chi nhánh lưới điện cao thế Hải Phòng- Công ty lưới điện cao thế miền Bắcbao gồm 15 phòng chức năng nghiệp vụ và 3 Trung tâm, 1 xí nghiệp, 14 Điện lực quận huyện, 1 Khách sạn, 18 trạm biến áp 110 kV, 15 trạm trung gian, 1.850 trạm biến áp phân phối, 350 Km đường dây cao thế, 1.680 Km đường dây trung thế, 2.695 Km đường dây hạ thế, 430.000 khách hàng dùng điện.
Khi mới tiếp quản Thành phố, Hải Phòng chỉ có 2 nhà máy điện Cửa Cấm – Thượng Lý và trạm phát điện D21 Kiến An. Lưới điện còn hạn hẹp, chủ yếu cấu điện cho nội thành, thị xã Kiến An, các khu vực quân sự và sân bay Cát Bi.
Lúc đó lưới điện Thành phố có:
+ 30 Km đường dây 35 KV
+ 100 Km đường dây 6 KV và 0,4 KV
+ 4 Trạm biến áp trung gian, 47 trạm biến áp phân phối với tổng dung lượng 544.000 KVA.
+ Số lượng khách hàng: 8.000
+ Sản lượng điện thương phẩm: 10.600 Mwh
40
Vào những năm 60, trạm điện 110kV An Lạc đã được xây dựng với tổng dung lượng 25.000kVA. Hàng loạt tuyến 35 kV được nối với An Lạc, thoả mãn một phần cho sản xuất nội thành và một vùng ngoại thành rộng lớn. Tiếp đó được xây dựng tiếp hàng loạt các đường dây 35 KV: An Lạc – Xi Măng; An Lạc – Cửa Cấm; An Lạc – Kiến An – Tiên Lãng – Vĩnh Bảo – Thái Bình và các trạm biến áp trung gian các huyện ngoại thành Kiến An - Đồ Sơn – An Hải – An Lão – Tiên Lãng – Vình Bảo và Thuỷ Nguyên.
Sau ngày Miền Nam giải phóng đất nước thống nhất (năm 1975), công nhân viên chức Công ty lại tập trung vào công việc khôi phục lại lưới điện bị tàn phá và cải tạo lại lưới điện đã quá cũ nát do nhiều năm sử dụng.
Năm 1977 xây dựng Nhà máy Tua bin khí An Lạc với tổng công suất 70.000 KVA để tạo nguồn điện tại chỗ cho Thành phố khi nguồn điện Quốc gia còn thiếu. Năm 1985 công nhân Ngành điện của chúng ta đã lần đầu tiên thi công xây lắp trạm 110 KV Lạch Tray.
Từ năm 1986 đã thực hiện được một khối lượng công việc rất lớn là qui hoạch và phát triển lưới điện Thành phố để đón nguồn điện sông Đà. Thời kỳ cả nước đổi mới cơ chế quản lý 1986 đến nay, mặc dù còn bị ảnh hưởng tư tưởng bao cấp nặng nề, song công nhân Công ty đã có nhận thức đúng đắn, từng bước đổi mới cách nghĩ cách làm để vừa thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị mà Thành phố giao, vừa phải hoàn thành các chỉ tiêu kinh doanh Ngành điện giao cho.
- Năm 1986 xây dựng trạm biến áp 110 KV Lạch Tray với 2 máy 16.000 KVA đưa điện cao thế vào sâu trong nội thành để cấp điện ổn định.
- Năm 1987 xây dựng trạm biến áp 110 KV Ngũ Lão - Thuỷ Nguyên có công suất 21.000 KVA để cấp điện cho khu công nghiệp tập trung ở phía Bắc Thành phố: Đất đèn, Đóng tàu, Xi măng …
- Năm 1989 xây dựng trạm biến áp 110 KV Cửa Cấm 1 máy 25.000 KVA.
- Năm 1992 xây dựng trạm biến áp 110 KVA Hạ Lý 1 máy 25.000 KVA.
41
Từ khi thành lập Công ty 4/1999 đến nay, Công ty đã tập trung đầu tư cải tạo phát triển lưới điện đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội thành phố sau năm 2000. Đặc biệt từ năm 1999 đến nay thực hiện cải tạo lưới điện Thành phố bằng các nguồn vốn với tổng mức đầu tư lên tới hàng trăm tỷ đồng. xây dựng các trạm 110 KV Cát Bi, trạm 110 KV Lê Chân, Đồ Sơn, Đình Vũ, Thủy Nguyên, Vĩnh Bảo, Cát Hải….và mở rộng trạm 110 KV An Lạc, đến nay đã có 18 trạm 110kV trải khắp các khu vực nội ngoại thành và tiếp tục phát triển góp phần cấp điện ổn định phục vụ cho sự nghiệp phát triển của Thành Phố trong thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa.
Năm 1991 đưa điện lưới quốc gia ra đảo Cát Hải, 12/5/ 1998 đã đưa lưới điện quốc gia ra đảo Cát Bà để góp phần cùng với Thành phố thực hiện tốt nhiệm vụ an ninh quốc phòng và phục vụ cho sự phát triển khu kinh tế du lịch dịch vụ. Do sự lớn mạnh không ngừng của Ngành điện Thành phố và trên cơ sở phương án cải tiến tổ chức của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam đã được Chính phủ phê duyệt tháng 7/4/1999, Bộ Công nghiệp đã có QĐ chuyển Điện lực Hải Phòng là đơn vị thuộc Công ty Điện lực I thành Công ty Điện lực Hải Phòng - đơn vị thành viên hạch toán độc lập trực thuộc Tổng Công ty Điện lực Việt Nam. Ngày 16/4/2006 Chính phủ đã có quyết định số 1354/QĐ-ttg chuyển Công ty Điện lực Hải Phòng thành Công ty TNHH MTV Điện lực Hải Phòng trực thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Và tháng 4/2010 trực thuộc Tổng Công ty điện lực Miền Bắc. Ngày 19/3/2018, theo quyết định số 501/EVNNPC của Tổng công ty Điện lực miền Bắc từ ngày 01/04/2018 Chi nhánh lưới điện cao thế Hải Phòng trực thuộc Công ty lưới điện cao thế miền Bắc.
2.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của công ty