ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ VÀ LÂM SÀNG TRÊN BỆNH NHÂN SẸO PHÌ ĐẠI, S Ẹ O L Ồ I T Ạ I KHOA DA LI Ễ U - TH Ẩ M M Ỹ DA
CỦA BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Sở Quân1, Lê Thái Vân Thanh1, Tạ Quốc Hưng2
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sẹo lồi và sẹo phì đại là hậu quả của việc quá phát mô sợi thường xảy ra sau quá trình lành thương của da, ảnh hưởng nhiều đến thẩm mỹ, tâm lý và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ và lâm sàng ở bệnh nhân có sẹo phì đại, sẹo lồi.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca trên 21 bệnh nhân đến khám tại khoa Da liễu - Thẩm mỹ da của bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 11/2020 đến tháng 10/2021 được chẩn đoán là sẹo phì đại, sẹo lồi.
Kết quả: Tuổi bệnh nhân đến khám trung bình là 32,0 ± 11,5. Tuổi trung bình khởi phát sẹo là 26,8 ± 11,6;
hơn 80% bệnh nhân có tuổi khởi phát sẹo từ 10 – 30. Trong số các bệnh nhân tham gia nghiên cứu 85,7% bệnh nhân có type da IV và 14,3% bệnh nhân có type da III theo phân loại da của Fitzpatrick, 23,8 % bệnh nhân có tiền sử gia đình mắc sẹo lồi. Lý do chính bị sẹo lồi là trứng cá chiếm 47,5%, do nguyên nhân phẫu thuật chiếm 18%, bỏng chiếm 18%, chấn thương chiếm 8,2% và có 8,2% sẹo lồi tự phát. Sẹo ở ngực gặp nhiều nhất chiếm 39,3%
(trong đó trước xương ức là 29,5%, vú là 9,8%) sau đó đến bả vai, tay, chân, vú, góc hàm, bụng, cổ, mu, nách, gối... trong đó sẹo nằm ở vị trí có lực căng da nhiều, khớp di động như trước xương ức, vú, bả vai, góc hàm, gối… chiếm 63,9%.
Kết luận: Vị trí xuất hiện sẹo phì đại và sẹo lồi gặp nhiều nhất ở nơi có sức căng lớn và dễ bị các sang thương như ngực gồm có phần trước xương ức và vú 2 bên, sau đó đến bả vai, tay, chân, góc hàm, bụng, cổ, mu, nách, đầu gối. Khi hiểu rõ hơn về sự ảnh hưởng của lực căng da cơ học lên quá trình hình thành sẹo, ta có thể sử dụng những phương pháp làm giảm lực căng da để phòng ngừa việc hình thành sẹo phì đại, sẹo lồi.
Từ khóa: sẹo phì đại, sẹo lồi
ABSTRACT
EPIDEMIOLOGICAL AND CLINICAL CHARACTERISTICS IN PATIENTS WITH OF HYPERTROPHIC SCARS, KELOID SCARS AT THE DEPARTMENT OF DERMATOLOGY AND SKIN AESTHETICS OF
UNIVERSITY MEDICAL CENTER IN HO CHI MINH CITY
Tran So Quan, Le Thai Van Thanh, Ta Quoc Hung
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 26 - No 1 - 2022: 140-146 Background: Keloids and hypertrophic scars are the result of an overgrowth of dense fibrous tissue that usually develops after healing of a skin injury, but they greatly affect the patient's aesthetics, psychology, and quality of life.
Objectives: To describe the epidemiological and clinical characteristics in patients with hypertrophic and keloid scars.
Methods: A descriptive study of a series on 21 patients who were diagnosed with hypertrophic scars, keloids
1Bộ môn Da Liễu, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
2Khoa Da Liễu – Thẩm mỹ da, Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS.BS. Lê Thái Vân Thanh ĐT: 0903774310 Email: [email protected]
at the Department of Dermatology and Skin Aesthetics of University Medical Center in Ho Chi Minh City from November 2020 to October 2021was diagnosed as hypertrophic scars, keloids.
Results: The average age of the patients was 32.0 ± 11.5. The mean age of scar onset was 26.8 ± 11.6. More than 80% of the patients had a scar onset age between 10 and 30. Among the patients participating in the study, 85.7% of the patients had skin type IV and 14.3% of the patients had skin type III according to Fitzpatrick classification, 23.8% of patients had a family history of keloids. For the causes of scar, acne accounts for 47.5%, surgery accounts for 18%, burns account for 18%, trauma for 8.2%, and spontaneous keloids for 8.2%. Scars in the chest are the most common, accounting for 39.3% (of which 29.5% in front of the sternum, 9.8% in the breast), then on the shoulder, hands, legs, breasts, jawline, abdomen, neck, pubic armpits, knees. In which scars are located in places with high, armpits, knees. In which scars are located in places with high tension, armpits, knees. In which scars are located in places with high, armpits, knees. In which scars are located in places with the high tension of the skin, movable joints such as the front of the sternum, breast, shoulder blade, jawline, knees accounted for 63.9%.
Conclusion: The most common site of the appearance of hypertrophic and keloid scars is in places of great tension and prone to injuries such as the chest, including the anterior sternum and bilateral breasts, then the shoulder blades, arms, and legs, jawline, abdomen, neck, pubic, armpit, knees. With a better understanding of the effect of mechanical tension on scar formation, methods of reducing skin tension can be used to prevent the formation of hypertrophic and keloid scars.
Keywords: hypertrophic scars, keloid scars
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sẹo lồi (keloid) và sẹo phì đại (hypertrophic scar) là những phản ứng quá mức của mô đối với chấn thương và cả hai đều do sự tăng sinh nguyên bào sợi và sản sinh quá mức của collagen tại thương tổn của da. Tuy nhiên, giữa chúng lại có sự khác biệt đáng kể, sẹo phì đại không được vượt quá vị trí tổn thương và thoái triển theo thời gian, trong khi đó sẹo lồi lại lan ra bên ngoài ranh giới vết thương ban đầu và không thoái triển theo thời gian(1). Đã có các nghiên cứu về vai trò của yếu tố di truyền, các cytokine tăng trưởng, nội tiết tố< trong cơ chế bệnh sinh của sẹo lồi, tuy nhiên cho tới nay cơ chế bệnh sinh của sẹo lồi vẫn chưa biết rõ khiến cho việc điều trị trở nên phức tạp hơn(2). Sẹo lồi và sẹo phì đại là những bệnh lành tính nhưng có ảnh hưởng đáng kể đến thẩm mỹ, tâm lý và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân(2).
Hiện nay đã có rất ít đề tài trong nước đánh giá về dịch tễ và biểu hiện lâm sàng sẹo phì đại, sẹo lồi. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào đánh giá kết quả của việc điều trị sẹo phì đại và sẹo lồi. Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí
Minh được biết đến là bệnh viện có uy tín không chỉ tại khu vực Miền Nam mà còn trên khắp Việt Nam, do đó có lượng lớn bệnh nhân đến khám từ các tỉnh lân cận, và các vùng miền khác trong cả nước. Ngoài ra, các ca đến khám và điều trị thường là những ca nặng, dai dẳng mà thất bại ở các cơ sở tuyến dưới. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này để góp phần làm sáng tỏ về yếu tố dịch tễ và đặc điểm lâm sàng trên sẹo lồi của người Việt Nam. Kết quả thu được giúp cung cấp một số dữ liệu cho công tác giáo dục sức khỏe, tư vấn phòng ngừa sẹo phì đại, sẹo lồi.
Cũng như giúp các bác sĩ da liễu tiên lượng và lên kế hoạch điều trị tốt hơn trên nhóm bệnh nhân này.
Mục tiêu
Mô tả đặc điểm dịch tễ và lâm sàng sẹo phì đại, sẹo lồi ở bệnh nhân đến khám và điều trị tại khoa Da liễu - Thẩm mỹ da của bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứuBệnh nhân đến khám tại khoa Da liễu - Thẩm mỹ da của bệnh viện Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 11/2020 đến tháng 10/2021.
Tiêu chuẩn chọn vào
Bệnh nhân đến khám và được chẩn đoán sẹo phì đại, sẹo lồi tại khoa Da liễu - Thẩm mỹ da của Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, theo tiêu chuẩn:
Sẹo phì đại(3): Xuất hiện sau chấn thương, vết thương hay tự phát; Không vượt quá ranh giới của vết thương ban đầu; Xuất hiện sau khi có vết thương 1 - 2 tháng, phát triển nhanh đến 6 tháng rồi thoái lui dần; Sẹo thường cao <4 mm so với mặt da, có màu đỏ hồng, cứng, ngứa.
Sẹo lồi(4): Khối sẹo phát triển cao lên và rộng ra, xâm lấn vào tổ chức da lành xung quanh, vượt quá giới hạn của tổn thương da ban đầu;
Xuất hiện sau chấn thương, vết thương hay tự phát và không có khuynh hướng tự thoái triển theo thời gian; Khối sẹo có màu sắc từ màu hồng, đỏ đến tím, có nhiều mạch máu dưới lớp biểu mô sẹo, một số sẹo có tăng sắc tố; sẹo có thể mềm hoặc cứng, chắc hoặc gây co kéo, ấn đau;
Vị trí: hay gặp ở vùng có sức căng da lớn như ngực, bả vai, trước xương ức, tay, chân, quanh các khớp vận động, một số vị trí đặc biệt như dái tai, < Triệu chứng cơ năng: có thể ngứa và đau tại chỗ; Tái phát cao sau điều trị phẫu thuật.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân đã được điều trị sẹo lồi trước đó trong vòng <6 tháng (trừ dùng silicone gel); Sẹo đã nhạt màu và bằng phẳng; Sẹo bị loét, chàm hóa, chảy máu, nhiễm trùng; Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Phƣơng pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca.
Phương pháp chọn mẫu Chọn mẫu thuận tiện.
Phương pháp thu thập số liệu
Chúng tôi tiến hành lập bộ câu hỏi cho nghiên cứu để thu thập các biến số liên quan đến dịch tễ học. Nhóm bệnh nhân được chẩn đoán
xác định là sẹo phì đại, sẹo lồi dựa vào tiêu chuẩn chẩn đoán, được ghi nhận thông tin về hành chính, đặc điểm lâm sàng vào bản thu thập dữ liệu nghiên cứu.
Biến số nghiên cứu
Tuổi: Biến định lượng, tính theo năm dương lịch (năm hiện tại trừ năm sinh).
Giới: Biến nhị giá, gồm nam và nữ.
Lý do điều trị: Biến danh định, gồm 4 giá trị:
ngứa, đau, thẩm mỹ, lo lắng bệnh tiến triển.
Tuổi khởi phát: Biến định lượng, tính theo năm dương lịch.
Tuổi sẹo: Biến danh định, gồm 3 giá trị: <1 năm, 1-3 năm, >3 năm.
Lý do bị sẹo: Biến danh định, gồm 5 giá trị:
tự phát, chấn thương, trứng cá, sau phẫu thuật, bệnh da khác.
Tiền sử gia đình bị sẹo lồi: Biến nhị giá, gồm có và không.
Type da: Biến danh định, gồm 3 giá trị III, IV, V.
Số lượng sẹo: Biến danh định, gồm 4 giá trị, đơn độc, 2-5 sẹo, 5-10 sẹo, >10 sẹo.
Vị trí: Biến danh định, gồm 9 giá trị: trước xương ức, ngực, bả vai, cơ delta, dưới hàm, dái tai, bụng, tay chân, khác.
Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được thu thập và xử lý bằng phần mềm Strata 13.0. Số liệu được xử lý thô trước khi nhập liệu. Kết quả được trình bày dưới dạng bảng và biểu đồ như tần số, tỷ lệ phần trăm.
Y đức
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, số: 727/HĐĐĐ-ĐHYD ngày 20/10/2020.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu tiến hành trên 21 người bệnh đến khám tại khoa Da liễu - Thẩm mỹ da của bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 11/2020 đến tháng 10/2021, được chẩn đoánsẹo phì đại và sẹo lồi theo tiêu chuẩn
chẩn đoán với 61 sẹo. Kết quả cho thấy tuổi trung bình của bệnh nhân là 32,0 ± 11,5. Bệnh nhân có tuổi nhỏ nhất là 17 tuổi và cao nhất là 58 tuổi (Bảng 1). Về yếu tố giới tính, có 4 bệnh nhân nam chiếm tỷ lệ là 19%, 17 bệnh nhân nữ là 81%
(Hình 1).
Về lý do đến khám, có 71,4% bệnh nhân đến khám bệnh vì lý do thẩm mỹ, 47,6% bệnh nhân vì lý do ngứa, 33,3% vì lo lắng bệnh tiến triển, và 23,8% vì đau. Một bệnh nhân có thể đến khám vì nhiều lí do (Bảng 2). Về tiền căn và phân loại da, có 4 bệnh nhân có tiền sử gia đình bị sẹo lồi chiếm 20%, có 18 bệnh nhân có type da IV chiếm 85%, 3 bệnh nhân có type da V chiếm 15% theo Fitzpatrick (Bảng 3).
Về số lượng sẹo, có 19% bệnh nhân chỉ có 1 sẹo, 52,3% bệnh nhân có 2-5 sẹo, 14,3% bệnh nhân có 6-10 sẹo, 14,3% bệnh nhân có trên 10 sẹo (Hình 2), với tuổi trung bình khởi phát sẹo là 26,8
± 11,6, có 21,3% sẹo dưới 1 năm tuổi, 47,5% sẹo từ 1-3 năm tuổi và 31,1% sẹo trên 3 năm tuổi (Bảng 4).
Bảng 1. Tuổi bệnh nhân (n=21)
Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất
Tuổi 32.0 ± 11.5 17 58
Bảng 2. Đặc điểm thói quen, lối sống, tiền căn bản thân/gia đình
Lý do đến khám Bệnh nhân
n %
Thẩm mỹ 15 71,4
Ngứa 10 47,6
Lo lắng bệnh tiến triển 7 33,3
Đau 5 23,8
Hình 1. Tỉ lệ giới tính của bệnh nhân (n=21)
Hình 2. Số lượng sẹo Bảng 3. Tiền sử gia đình và type da (n=21)
Bệnh nhân (n; %) Tiền sử gia đình có cơ địa sẹo 5 (23,8%)
Type da
IV 18 (85,7%)
III 3 (14,3%)
Bảng 4. Phân bố sẹo theo tuổi khởi phát (n=61)
Bệnh nhân (n; %) Tuổi khởi phát bệnh (năm) 26.8 ± 11.6
Tuổi sẹo
<1 năm 13 (21.3)
1-3 năm 29 (47.5)
>3 năm 19 (31.1)
Lý do chính bị sẹo lồi là trứng cá chiếm 47,5%, do nguyên nhân phẫu thuật chiếm 18%, bỏng chiếm 18%, chấn thương chiếm 8,2% và có 8,2% sẹo lồi tự phát (Hình 3). Sẹo ở ngực gặp nhiều nhất chiếm 39,3% (trong đó trước xương ức là 29,5%, vú là 9,8%) sau đó đến bả vai, tay, chân, vú,góc hàm, bụng, cổ, mu, nách, gối<
Trong đó sẹo nằm ở vị trí có lực căng da nhiều, khớp di động như trước xương ức, vú,bả vai, góc hàm, gối< chiếm 63,9% (Hình4, 5).
Hình 3. Lý do bị sẹo lồi (n=61)
Hình 4. Vị trí sẹo trên cơ thể (n=61)
Hình 5.Vị trí sẹo theo vị trí lực căng da (n=61)
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu, tuổi bệnh nhân đến khám trung bình là 32,0 ± 11,5. Tuổi nhỏ nhất là 17, lớn nhất là 58. Trong đó nhóm tuổi từ 20-30 tuổi chiếm 43%. Đây là nhóm tuổi xuất hiện sẹo lồi nhiều và bệnh nhân quan tâm nhiều hơn về vấn đề thẩm mỹ so với các nhóm tuổi còn lại.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ bệnh nhân nam là 19% và nữ là 81% (tỷ lệ nam/nữ gần tương đương 1:4). Tỷ lệ bệnh nhân nữ đến khám và điều trị trong nghiên cứu của chúng tôi nhiều hơn số bệnh nhân nam. Điều này có thể do phụ nữ quan tâm nhiều đến thẩm mỹ hơn nam giới. Trong một nghiên cứu ở Úc dự đoán về tỉ lệ sẹo lồi dựa trên thang điểm Modified Vancouver Scar Scale, phụ nữ có nguy cơ bị sẹo lồi cao hơn sau khi tính các yếu tố liên quan(5). Với nghiên cứu tương tự ở trẻ nhỏ, không có sự khác biệt về giới tính nào được tìm thấy. Trong các nghiên cứu trước đây sự khác biệt về giới tính không được quan sát.
Kết quả nghiên cứu có 85,7% bệnh nhân có
type da IV và 14,3% bệnh nhân có type da III theo phân loại da của Fitzpatrick. Loại da là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự hình thành sẹo. Một trong những nghiên cứu đầu tiên dự đoán về chất lượng sẹo từ năm 1983 sẹo phì đại thường được báo cáo nhiều hơn ở bệnh nhân có da sẫm màu hơn loại da V hoặc VI có liên quan đến chất lượng sẹo kém hơn, dựa trên cả bệnh nhân và người quan sát theo POSAS(6). Ngoài ra, da sậm màu hơn (da loại IV – VI) có nguy cơ tăng sẹo lồi, ở trẻ em chưa quan sát thấy(5). Tỷ lệ sẹo lồi trung bình có thể được ước tính là 5–10%
ở người Châu Phi, 0–0,1% ở người Châu Á và ít hơn 0,1% ở các quốc gia khác như hình. Giả thiết cho rằng sự biến đổi địa lý lớn này tỷ lệ sẹo lồi có thể phản ánh sự khác biệt chủng tộc trong sắc tố da. Tuy nhiên, dữ liệu về tỉ lệ sẹo lồi ở các chủng tộc khác nhau có nhiều khác biệt. Tỷ lệ da đen/da trắng được báo cáo thay đổi từ 14:1 thành 2:1(7). Theo Louw L, người da đen và người châu Á đều dễ bị ảnh hưởng hơn để hình thành sẹo lồi hơn người da trắng. Tuy nhiên, cũng có các báo cáo nói rằng người châu Á có thể có tỷ lệ sẹo lồi thấp tương tự như người da trắng (0,1% ở Nhật Bản so với 0,09% ở Anh)(8).
Các nghiên cứu di truyền cho thấy sự hình thành sẹo lồi liên quan với một số đột biến gen hoặc đa hình(9). Sẹo lồi cũng thể hiện xu hướng gia đình(10). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có 23,8 % bệnh nhân có tiền sử gia đình mắc sẹo lồi (cụ thể cha mẹ, anh chị em ruột). Trong nghiên cứu của Abeer Shaheen (2016) tỉ lệ này là 19,3%, còn trong nghiên cứu của Gauglitz GG (2011) là trên 50%(4,11,12). Theo Brown JJ, có mối liên quan giữa HLA-DRB1*15, HLA- DQA1*0104, DQB1*0501 và DQB1*0503 với sự phát triển của sẹo lồi(11). Các bệnh di truyền liên quan đến tăng nguy cơ sẹo lồi bao gồm hội chứng Rubinstein-Taybi (RSTS), hội chứng Ehlers-Danlos, hội chứng Lowe, và hội chứng liên kết X mới, và những hội chứng khác.
Tuổi trung bình khởi phát sẹo là 26,8 ± 11,6.
Hơn 80% bệnh nhân có tuổi khởi phát sẹo từ 10 – 30. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của
nhiều tác giả trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Sẹo lồi có thể xuất hiện ở bất kỳ giai đoạn phát triển nào của cơ thể, tuy nhiên thực tế cho thấy sẹo lồi thường gặp nhất ở độ tuổi từ 10 đến 30 tuổi. Đây là lứa tuổi có sự gia tăng của nội tiết tố tăng trưởng, dẫn đến tăng sản xuất collagen và tạo sẹo(13). Tuổi càng cao thì càng giảm nguy cơ hình thành sẹo lồi, nghiên cứu cho thấy nguy cơ bị sẹo lồi giảm hơn ở người trên 45 tuổi so với người dưới 30 tuổi(14). Trong nghiên cứu của chúng tôi có 21,3% sẹo dưới 1 năm tuổi, 47,5%
sẹo từ 1-3 năm tuổi và 31,1% sẹo trên 3 năm tuổi.
Trong nghiên cứu của chúng tôi lý do chính bị sẹo lồi là trứng cá chiếm 47,5%, do nguyên nhân phẫu thuật chiếm 18%, bỏng chiếm 18%, chấn thương chiếm 8,2% và có 8,2% sẹo lồi tự phát. So với nghiên cứu của Erol (2008) có nguyên nhân chính là sau phẫu thuật chiếm hơn 50%, mụn trứng cá chỉ chiếm gần 5% lý do.
Nghiên cứu của Lê Thị Xuân (2018) có tỉ lệ sẹo lồi do mụn trứng cá là 77% cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Còn nghiên cứu của Trần Thị Thanh Tâm (2017) đối tượng nghiên cứu là bệnh nhân có sẹo lồi, sẹo phì đại do mụn trứng cá.
Kết quả của chúng tôi cho thấy vị trí ngực gồm có phần trước xương ức (29,5%) và vú 2 bên (9,8%) gặp nhiều nhất có tổng chiếm 39,3%, sau đó đến bả vai, tay, chân, góc hàm, bụng, cổ, mu, nách, gối< Tỉ lệ này trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn trong nghiên cứu của Trần Thị Thanh Tâm (2017) với 76%, và cửa Lê Thị Xuân (2018) với 59%. Lý do khởi phát sẹo của Trần Thị Thanh Tâm và Lê Thị Xuân chủ yếu về sẹo lồi do trứng cá, mà vị trí chủ yếu ở ngực, góc hàm, lưng. Trong khi đó, nguyên cứu của chúng tôi nguyên nhân sau phẫu thuật, bỏng, chấn thương cũng chiếm phần không nhỏ, và có lẽ những điều này tạo nên sự khác biệt.
Srivastavam S (2018) cũng cho rằng vị trí sẹo lồi hay gặp nhất là ngực và trước xương ức chiếm 32/60 (53,3%)(15). Sẹo lồi có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể. Tuy nhiên, thương tổn rất thường gặp tại một số nơi có sức căng da lớn và
dễ bị các sang thương như ngực, bả vai, quanh các khớp. Trong nghiên cứu của chúng tôi sẹo nằm ở vị trí có lực căng da nhiều, khớp di động chiếm 63,9%. Tầm quan trọng của lực căng cơ học đã được cũng cố qua một số nghiên cứu quan sát, trong đó có nghiên cứu chứng minh sẹo phì đại có thể tạo ra trên các mô hình động vật thí nghiệm bằng tác dụng lực căng cơ học(16). Hơn nữa, bệnh nhân châu Á cho thấy sẹo lồi có xu hướng xảy ra ở các vị trí cụ thể (vùng trước ngực, vai, hạ vị) liên tục hoặc thường xuyên chịu các lực cơ học, bao gồm rạn da do chuyển động cơ thể hàng ngày(17). Da ngực trước thường xuyên được kéo căng theo chiều ngang của các cử động chi trên, vai và bả vai bị kéo căng liên tục bởi chuyển động chi trên và chuyển động uốn cong cơ thể. Ngược lại, sẹo nặng hiếm khi phát triển trên da đầu, mí mắt trên và mặt trước cẳng chân, ngay cả ở bệnh nhân có sẹo lồi rộng hoặc sẹo phì đại bao phủ phần lớn cơ thể, có thể là do đây là những vùng da không căng. Vì vậy, ngay cả trong trường hợp vết thương sâu trên da đầu và cẳng chân trước, vết thương vẫn chịu một lực căng da ít bởi vì da trên những vùng này được ổn định bởi xương nằm ngay bên dưới nó.
Hơn nữa, có rất ít sự căng của mí mắt trên trong quá trình mở và nhắm mắt. Một bằng chứng quan trọng khác cho thấy tầm quan trọng của lực căng cơ học trong hình thành sẹo là sẹo lồi ngày càng lớn theo phương ngang, hướng của các lực chủ yếu lên vết thương. Điều này dẫn đến đặc điểm hình dạng sẹo lồi trên các vị trí cụ thể đều mang tính đặc trung riêng liên quan vị trí cấu tạo. Ví dụ như sẹo lồi ở ngực trước phát triển theo hình “càng cua” hoặc “bướm”, trong khi sẹo lồi trên cánh tay phát triển thành hình dạng giống “quả tạ” dọc theo trục dài của chi.
Các lực căng cơ học đến từ các hướng chủ yếu dẫn đến tình trạng viêm cao tại các cạnh sẹo lồi.
Điều này là do kích thích collagen cục bộ sản sinh, từ đó khiến sẹo lồi xâm lấn xa hơn theo hướng căng da. Tuy nhiên, rất có thể tình trạng viêm ở sẹo nặng cũng được định hình bởi nhiều yếu tố nguy cơ khác, bao gồm cơ địa, di truyền
và các yếu tố toàn thân như tăng huyết áp.
Trong các nghiên cứu tạo sẹo nặng trên động vật như trên chuột, thỏ. Những vết sẹo nặng được gây ra bằng cách đặt một lực cơ học lên các cạnh của vết rạch da. Phân tích mô hình này cho thấy rằng khi các vết sẹo bị căng, chúng ít biểu hiện quá trình tự chết tế bào theo chương trình trong cơ chế lành thương mà ngược lại các tế bào viêm và lực căng cơ học thúc đẩy hiện tượng xơ hóa.
Ngoài ra, các nghiên cứu với mô hình này cho thấy rằng trong quá trình phát triển sẹo bệnh lý, các con đường tín hiệu cơ học tế bào tương tác tích cực với chất nền ngoại bào và với các con đường thiếu oxy, viêm và hình thành mạch(16). Khi hiểu rõ hơn về sự ảnh hưởng của lực căng da cơ học lên quá trình hình thành sẹo, ta có thể sử dụng những phương pháp làm giảm lực căng da để phòng ngừa cũng như điều trị sẹo phì đại hoặc sẹo lồi như băng quấn, silicone gel, chỉ khâu giúp hạn chế tối đa lực căng tác dụng lên lớp bì, cũng như đường may Z- plasty, ghép vạt da<
KẾT LUẬN
Sẹo lồi và sẹo phì đại ảnh hưởng nhiều đến thẩm mỹ, chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Lứa tuổi 10-30 là giai đoạn dễ phát sinh sẹo nhất do khả năng tăng sinh collagen, cũng như có sự hỗ trợ của các yếu tố thúc đẩy như mụn trứng cá, chấn thương. Vị trí xuất hiện sẹo phì đại và sẹo lồi gặp nhiều nhất ở nơi có sức căng lớn và dễ bị các sang thương như ngực gồm có phầm trước xương ức và vú 2 bên, sau đó đến bả vai, tay, chân, góc hàm, bụng, cổ, mu, nách, gối... Khi hiểu rõ hơn về sự ảnh hưởng của lực căng da cơ học lên quá trình hình thành sẹo, ta có thể sử dụng những phương pháp làm giảm lực căng da để phòng ngừa việc hình thành sẹo phì đại, sẹo lồi. Cần có nghiên cứu tiếp theo đánh giá hiệu quả điều trị của các phương pháp điều trị để nâng cao chất lượng cuộc sống và thẩm mỹ cho người bệnh mắc bệnh sẹo phì đại và sẹo lồi
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mahdavian Delavary B, van der Veer WM, Ferreira JA, Niessen
FB (2012). Formation of hypertrophic scars: evolution and susceptibility. J Plast Surg Hand Surg, 46(2):95-101.
2. Al-Attar A, Mess S, Thomassen J M, Kauffman CL, et al (2006).
Keloid pathogenesis and treatment. Plast Reconstr Surg, 117(1):286-300.
3. Rabello FB, Souza CD, Farina Júnior JA (2014). Update on hypertrophic scar treatment. Clinics (Sao Paulo), 69(8):565-573.
4. Gauglitz GG, Korting HC, Pavicic T, Ruzicka T, et al (2011).
Hypertrophic scarring and keloids: pathomechanisms and current and emerging treatment strategies. Mol Med, 17(1-2):113-125.
5. Wallace HJ, Fear MW, Crowe MM, Martin LJ, et al (2017).
Identification of factors predicting scar outcome after burn in adults: A prospective case-control study. Burns, 43(6):1271-1283.
6. Goei H, van der Vlies CH, Hop MJ, Tuinebreijer WE, et al (2016). Long-term scar quality in burns with three distinct healing potentials: A multicenter prospective cohort study.
Wound Repair Regen, 24(4):721-730.
7. Alhady SM, Sivanantharajah K (1969). "Keloids in various races.
A review of 175 cases. Plast Reconstr Surg, 44(6):564-566.
8. Louw L (2000). Keloids in rural black South Africans. Part 1:
general overview and essential fatty acid hypotheses for keloid formation and prevention. Prostaglandins Leukot Essent Fatty Acids, 63(5):237-245.
9. Shih B, Bayat A, (2010). Genetics of keloid scarring. Arch Dermatol Res, 302(5):319-339.
10. Santos-Cortez RLPHY, Sun F, Benahmed-Miniuk F, Tao J, Kanaujiya JKAS, Fadiora S, Odesina V, Nickerson, DABM, Olaitan PB, Oluwatosin OM, Leal SMEJR (2017). Identification of ASAH1 as a susceptibility gene for familial keloids. Eur J Hum Genet, 25(10):1155–1161.
11. Brown JJ, Ollier WE, Thomson W, Bayat A (2008). Positive association of HLA-DRB1*15 with keloid disease in Caucasians.
Int J Immunogenet, 35(4-5):303-307.
12. Shaheen A, Khaddam J, Kesh F (2016). Risk factors of keloids in Syrians. BMC Dermatol, 16(1):13.
13. Juckett G, Hartman-Adams H (2009). Management of keloids and hypertrophic scars". Am Fam Physician, 80(3):253-260.
14. van der Wal MB, Verhaegen PD, Middelkoop E, van Zuijlen PP (2012). A clinimetric overview of scar assessment scales. J Burn Care Res, 33(2):e79-87.
15. Srivastava S, Patil A, Prakash C, Kumari H (2018). Comparison of Intralesional Triamcinolone Acetonide, 5-Fluorouracil, and Their Combination in Treatment of Keloids". World J Plast Surg, 7(2):212-219.
16. Aarabi SBK, Shi Y, Paterno J, Chang EI, Loh SA, Holmes JWLM, Yee H, Gurtner GC (2007) .Mechanical load initiates hypertrophic scar formation through decreased cellular apoptosis. FASEB, 21(12):3250–3261.
17. Ogawa ROK, Tokumura F, Mori K, Ohmori Y, Huang C, Hyakusoku HAS (2012). The relationship between skin stretching/contraction and pathologic scarring: the important role of mechanical forces in keloid generation. Wound Repair Regen, 20(2):149-157.
Ngày nhận bài báo: 08/12/2021
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 10/02/2022 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2022