• Tidak ada hasil yang ditemukan

YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TỬ VONG CỦA BỆNH NHIỄM TRÙNG HUYẾT Ở NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TỬ VONG CỦA BỆNH NHIỄM TRÙNG HUYẾT Ở NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TỬ VONG CỦA BỆNH NHIỄM TRÙNG HUYẾT NG ƯỜ I NHI M HIV/AIDS T I B NH VI N B NH NHI T ĐỚ I

Hồ Quang Minh1, Võ Triều Lý1, Trần Minh Hoàng1, Trần Đăng Khoa1

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Nhiễm trùng huyết là bệnh lý thường gặp, khiến bệnh nhân HIV/AIDS nhập hồi sức tích cực, có tiên lượng xấu. Việc khảo sát các yếu tố liên quan đến tử vong ở bệnh nhân nhiễm HIVAIDS sẽ nâng cao hiệu quả điều trị và tiên lượng bệnh.

Mục tiêu: Mô tả kết cục điều trị và các yếu tố liên quan đến tử vong ở bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS bị nhiễm trùng huyết.

Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, các bệnh nhân nhập viện khoa Nhiễm E bệnh viện Bệnh Nhiệt đới, từ tháng 06/2020 đến tháng 5/2021.

Kết quả : Trong 184 bệnh nhân HIV/AIDS bị nhiễm trùng huyết, bệnh nhân giai đoạn AIDS chiếm 87,2%.

Tác nhân gây bệnh thường gặp là vi nấm (51,6%), vi trùng (48,4%), đa tác nhân (6%). Tỉ lệ tử vong chung là 35,3%, nhóm vi trùng: 39%, vi nấm: 29,2%, nhiễm đa tác nhân: 63,6%. Yếu tố liên quan đến tử vong ở bệnh nhân HIV/AIDS nhiễm trùng huyết là suy hô hấp, rối loạn tri giác, tổn thương thận cấp, nhiễm đa tác nhân.

Kết luận:. Để giảm tử vong ở bệnh nhân nhiễm trùng huyết cơ địa nhiễm HIV/AIDS, cần can thiệp chăm sóc tích cực, điều trị các tổn thương cơ quan, điều trị kháng sinh sớm; dự đoán đúng và tối ưu hóa khả năng phân lập tác nhân gây bệnh.

Từ khóa: nhiễm trùng huyết, HIV/AIDS

ABSTRACT

FACTORS RELATED TO MORTALITY AMONG HIV/AIDS PATIENTS SUFFERING BLOODSTREAM INFECTION Ho Quang Minh, Vo Trieu Ly, Tran Minh Hoang, Tran Dang Khoa

* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 26 - No 1 - 2022: 247-253 Background: Bloodstream infection (BSI) is a common disease causing HIV/AIDS patients to admission intensive care unit with the poor prognosis. The investigation of factors related to mortality in this diease will improve the treatment effectiveness and prognosis.

Objectives: Description of the outcomes and factors associated with mortality in HIV/AIDS patients diagnosised BSI.

Methods. A descriptive cross-sectional study, at Hospital for Tropical Diease, from June 2020 to May 2021.

Results: From 184 patients in research, AIDS patients accounted for 87.2%. Common pathogens are fungi (51.6%), bacteria (48.4%), polimicrobic (6%). The overall mortality rate was 35.3%, bacterial group: 39%, fungal: 29.2%, polimicrobic: 63.6%. Factors associated with death in septic HIV/AIDS patients are respiratory failure, mental disturbances, acute kidney injury, polimicrobic BSI.

Conclusion: To reduce mortality in HIV/AIDS-infected patients suffering BSI, it is necessary to intensive care, control organs’s failure, give early antibiotic treatment, correct prediction and optimization of pathogen isolation.

Keywords: bacteremia, HIV/AIDS

1BM Nhiễm- ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh

Tác giả liên lạc: BS. Hồ Quang Minh ĐT: 0979323045 Email: [email protected]

(2)

ĐẶT VẤN ĐỀ

Nhiễm trùng huyết trên cơ địa nhiễm HIV/AIDS chiếm tỉ lệ 12 – 31% trong các nguyên nhân khiến bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS nhập khoa hồi sức cấp cứu tích cực và đi kèm tiên lượng xấu. Theo nghiên cứu của Nguyễn Lê Như Tùng (2008), tỉ lệ tử vong do nhiễm trùng huyết còn cao, tỉ lệ tử vong chung là 33,2%(1). Theo nghiên cứu của Aluisio AR, tỉ lệ tử vong của bệnh nhân nhiễm trùng huyết trên cơ địa nhiễm HIV/AIDS là 33,5%, cao hơn có ý nghĩa so với người không nhiễm HIV/AIDS và có thời gian nằm viện kéo dài hơn(2). Theo một nghiên cứu hồi cứu của Medrano J từ năm 2006 đến 2010 tại khoa ICU tại các bệnh viện ở Tây Ban Nha, tỉ lệ tử vong nội viện vào ngày thứ 30 và ngày thứ 90 ở nhóm bệnh nhân nhiễm trùng huyết trên cơ địa nhiễm HIV đều cao hơn so với nhóm chứng, với tỉ lệ tử vong chung là 57,7% so với 39,4% (p <0,001)(3). Từ đó cho thấy việc nhiễm HIV là yếu tố nguy cơ dẫn đến nhiễm trùng huyết nặng ở bệnh nhân nhập viện ở khoa hồi sức tích cực. Do đó, cần các nổ lực để cải thiện tiên lượng tử vong ở bệnh nhân HIV/AIDS bị nhiễm trùng huyết.

Chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả đặc điểm lâm sàng, kết quả điều trị và các yếu tố liên quan đến tử vong ở bệnh nhân HIV/AIDS bị nhiễm trùng huyết.

Mục tiêu

Mô tả kết cục điều trị của bệnh nhân nhiễm trùng huyết cơ địa nhiễm HIV/AIDS.

Mô tả các yếu tố liên quan đến tử vong ở bệnh nhân HIV/AIDS bị nhiễm trùng huyết.

ĐỐI TƢỢNG – PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tƣợng nghiên cứu

Bệnh nhân nhiễm HIV mắc nhiễm trùng huyết, có kết quả cấy máu dương tính, điều trị trị tại khoa Nhiễm E, bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới trong thời gian thu nhận mẫu.

Tiêu chuẩn chọn mẫu

Bệnh nhân đạt đủ các tiêu chuẩn: người lớn

(≥15 tuổi), được chẩn đoán xác định nhiễm HIV/AIDS theo tiêu chuẩn của Bộ Y Tế, có kết quả cấy máu dương tính.

Tiêu chuẩn loại trừ

Bệnh nhân không đồng ý tham gia vào NC, cấy máu ngoại nhiễm, không theo dõi được đến lúc xuất viện.

Phƣơng pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang mô tả.

Cỡ mẫu

Ước tính cỡ mẫu (số bệnh nhân nhiễm trùng huyết có cấy máu dương tính) theo công thức:

.

Chọn p=33,2% (tỉ lệ tử vong ở bệnh nhân HIV/AIDS bị nhiễm trùng huyết của Nguyễn Lê Như Tùng 2008), sai số: 10%, độ tin cậy 95%. Vậy cỡ mẫu tối thiểu ước tính: 85 ca.

Cách tiến hành

Thu thập số liệu về yếu tố dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và kết cục điều trị của các bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn nghiên cứu nhập viện từ tháng 6/2020 – tháng 5/2021.

Định nghĩa một số biến số chính

Suy dinh dưỡng: BMI <18,5. Nhiễm trùng huyết: bệnh nhân có triệu chứng nghi ngờ nhiễm trùng (sốt; triệu chứng đường hô hấp: chứng ho, khó thở, đau ngực, khám phổi có ran phổi, hội chứng đông đặc; triệu chứng đường tiêu hóa:

đau bụng, tiêu chảy, nôn ói, bụng có điểm đau;

da: có các sang thương da: loét, sẩn, dát, bóng nước<) và có kết quả cấy máu dương tính với tác nhân gây bệnh. Nhiễm HIV được chẩn đoán nhiễm HIV/AIDS (hướng dẫn điều trị và chăm sóc HIV/AIDS năm 2019 của Bộ Y Tế(4)). Giai đoạn AIDS được xác định khi bệnh nhân có giai đoạn lâm sàng 4 hoặc có số lượng tế bào CD4

<200 tế bào/ uL. Sốc: huyết áp tâm thu dưới 90 mmHg hoặc huyết áp động mạch trung bình <65 mmHg. Suy hô hấp: tăng công thở, tăng nhịp thở trên 24 lần/phút, SpO2 <90% khi thở khí trời,

(3)

PaO2/FiO2 <200, PaCO2 >45 mmHg. Rối loạn tri giác: khi GCS dưới 15 điểm. Tổn thương thận cấp: Creatinin huyết thanh tăng hơn giá trị nền 0,5 mg/dL (44 umol/L), hoặc có CrCl giảm dưới 60 ml/phút (với những bệnh nhân không biết giá trị creatinine nền) hoặc khi nước tiểu < 500 ml/ngày. Giảm tiểu cầu: tiểu cầu máu ngoại biên

<100 tế bào/ uL. Vàng da: bilirubin toàn phần trong huyết thanh ≥34 umol/L SOFA: thang điểm đánh giá tổn thương cơ quan theo Sepsis – 3(5). Tử vong: khi bệnh nhân tử vong thật sự được xác định tại bệnh viện hoặc tình trạng bệnh nặng, thân nhân xin về.

Kỹ thuật đo lường biến số

Các xét nghiệm công thức máu, sinh hóa máu, được thực hiện tại phòng xét nghiệm của bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới. Tổng phân tích tế bào máu được thực hiện trên máy Advia 2120i1. Xét nghiệm sinh hóa (men gan, creatinin, bilirubin, điện giải đồ<) thực hiện trên máy Cobas C501.

Kỹ thuật cấy máu và xác định tác nhân gây bệnh: Cấy máu áp dụng kỹ thuật cấy máu bằng chai cấy máu tự động (BACTEC 9240, Bact/ALERT 3D). Sau khi có kết quả cấy dương tính, mẫu máu sẽ được cấy chuyển lên thạch và định danh bằng phương pháp sinh hóa thường quy hoặc bằng phương pháp MALDI- TOF.

Phương pháp thống kê

Nhập và phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 22.0. Các biến số liên tục được biểu diễn bằng giá trị trung vị (IQR). Biến định tính biểu hiện bằng tỉ lệ %. Sự khác biệt về tỉ lệ giữa 2

nhóm được so sánh bằng phép kiểm chi bình phương. Các giá trị liên tục không có phân phối chuẩn được so sánh bằng phép kiểm Mann- Whitney U (2 nhóm) hay phép kiểm Kruskal Wallis (≥3 nhóm). Chọn độ tin cậy 95% trong các phép kiểm.

Y đức

Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học của bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới, số 1584/QĐ – BVBNĐ (ngày 10 tháng 09 năm 2020).

KẾT QUẢ

Từ tháng 6/2020 đến tháng 5/2021, tổng cộng có 184 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu.

Kết quả phân lập chung

Có 77 bệnh nhân nhiễm trùng huyết do vi khuẩn (41,8%), 96 bệnh nhân nhiễm vi nấm (52,2%) và có 11 bệnh nhân nhiễm trùng huyết đa tác nhân (6%). 1 trường hợp vi khuẩn kháng acid – cồn.

Kết cục điều trị

Tỉ lệ tử vong chung của bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS bị nhiễm trùng huyết là 35,3%. Ở bệnh nhân nhiễm trùng huyết đa tác nhân, tỉ lệ tử vong cao nhất, tỉ lệ 63,6%. 51,6% bệnh nhân nhiễm trùng huyết phải nhập đơn vị chăm sóc tích cực. Tỉ lệ chuyển viện khoảng 7,1%, thường liên quan đến chuyển bệnh viện Phạm Ngọc Thạch vì chẩn đoán lao.

Hình 1. Kết quả điều trị phân theo các tác nhân

(4)

Các yếu tố liên quan đến tử vong ở bệnh nhân HIV/AIDS bị nhiễm trùng huyết

Tỉ lệ bệnh nhân có sốc, suy hô hấp, tổn thương thận cấp và rối loạn tri giác ở nhóm bệnh

nhân tử vong cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh nhân sống còn. Điểm SOFA trung vị ở nhóm bệnh nhân tử vong là 9 (5 – 18), cao hơn so với nhóm bệnh nhân sống (Bảng 2).

Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân tử vong và không tử vong

Chung (n = 184) Tử vong (n=65) Sống (n=119) p Nhóm Tuổi

0,459*

16 – 25 tuổi 35 (19%) 15 (23,1%) 20 (16,8%)

26 – 59 tuổi 145 (78,8%) 48 (73,8%) 97 (81,5%)

≥ 60 tuổi 4 (2,2%) 2 (3,1%) 2 (1,7%)

Có điều trị ARV (n=93) 64 (68,8%) 26 (40%) 38 (31,9%) 0,272 *

Giai đoạn AIDS 156 (87,2%) 56 (90,3%) 100 (85,5%) 0,356 *

Suy dinh dưỡng 85 (46,2%) 31 (47,7%) 54 (45,4%) 0,763*

Sốc 46 (25%) 37 (56,9%) 9 (7,6%) < 0,001 *

Suy hô hấp 72 (39,1%) 51 (78,5%) 21 (17,6%) < 0,001 *

Rối loạn tri giác 50 (27,2%) 31 (47,7%) 19 (16%) < 0,001*

Giảm tiểu cầu 63 (34,2%) 23 (35,4%) 40 (33,6%) 0,809*

Tổn thương thận cấp 48 (26,1%) 32 (49,2%) 16 (13,4%) < 0,001*

Vàng da (n = 52) 27 (51,9%) 13 (59,1%) 14 (46,7%) 0,376*

Nhiễm trùng cơ hội đồng mắc 75 (40,8%) 27 (41,5%) 48 (40,3%) 0,874 *

SOFA (n=46) 6 (0 - 18) 9 (5 – 18) 4 (0 – 10) 0,011 **

T CD4 (n=65) 17 (3 – 572) 17 (5 – 572) 18 (3 – 400) 0,694**

Thời gian cấy máu dương tính (n=167)b 38 (4– 377) 42 (9,5 – 215) 0,108 **

*: Phép kiểm chi bình phương, độ tin cậy 95% **: Phép kiểm Mann – Whitney, độ tin cậy 95%

b Loại trừ những trường hợp cấy máu đa tác nhân, có 6 TH không ghi nhận được thời gian cấy máu dương tính Phân tích đặc điểm tác nhân gây bệnh liên

quan đến tử vong

Bảng 3. So sánh tỉ lệ tử vong giữa vi khuẩn và vi nấm

Tác nhân gây bệnh Tử vong (n=58) Sống (n=115) p Vi khuẩn 30 (51,7%) 47 (40,9%)

0,175 Vi nấm 28 (48,3%) 68 (59,1%) (Phép kiểm chi bình phương)

Không có sự khác biệt về tỉ lệ tử vong của bệnh nhân nhiễm trùng huyết do vi khuẩn và vi nấm (Bảng 3).

Không có sự khác biệt về tỉ lệ tử vong giữa nhóm nhiễm trùng huyết do vi khuẩn gram dương và gram âm. Tác nhân nấm men trong nghiên cứu phân lập được là C. neoformansCandida spp (chỉ có 2 ca, đều ở nhóm tử vong).

Tác nhân nấm sợi phân lập được là T. marneffei.

Bệnh nhân nhiễm trùng huyết do tác nhân nấm men có tỉ lệ tử vong cao hơn so với nấm sợi.

Bệnh nhân nhiễm trùng huyết đa tác nhân tỉ lệ

tử vong cao hơn so với nhóm chỉ nhiễm 1 tác nhân (Bảng 4).

Bảng 4. So sánh tỉ lệ tử vong giữa các tác nhân trong nhóm

Tác nhân Tử vong (n=29) Sống (n=47) p So sánh trong nhóm vi khuẩn

Gram dương 11 (37,9%) 16 (34%)

0,731 Gram âm 18 (62,1%) 31 (66%)

So sánh trong nhóm vi nấm Nấm men 21 (75%) 35 (51,5%)

0,034 Nấm sợi 7 (25%) 33 (48,5%)

So sánh giữa đa tác nhân và 1 tác nhân Đa tác nhân 7 (10,8%) 4 (3,4%)

0,043 1 tác nhân 58 (89,2%) 115 (96,6%)

(phép kiểm chi bình phương)

Phân tích đa biến các yếu tố liên quan độc lập với tiên lƣợng tử vong

Chúng tôi sử dụng 5 yếu tố có mức ý nghĩa p <0,05 trong nghiên cứu là tình trạng sốc, suy hô hấp, rối loạn tri giác, tổn thương thận cấp và nhiễm đa tác nhân vào phân tích đa biến.

(5)

Bảng 5. Các yếu tố liên quan đến tỉ lệ tử vong – phân tích đa biến (n=184)

OR KTC 95% P

Sốc 2,7 0,91 - 8,02 0,073 Suy hô hấp 8,5 3,21 – 22,59 < 0,001 Rối loạn tri giác 5,3 2,02 – 13,69 0,001 Tổn thương thận cấp 5,3 1,98 – 12,22 0,001 Đa tác nhân 5,5 1,03 – 28,88 0,046

Kết quả Bảng 5 cho thấy, 4 yếu tố có liên quan độc lập đến tiên lượng tử vong là suy hô hấp, rối loạn tri giác, tổn thương thận cấp và nhiễm trùng huyết đa tác nhân. Trong số phân tích mức độ tiên lượng tử vong, bệnh nhân có suy hô hấp có tỉ số số chênh 7,9 lần so với bệnh nhân không có suy hô hấp (KTC 95% 3,21 – 22,59; p <0,001). Bệnh nhân có rối loạn tri giác có tỉ số chênh gấp 5,3 lần so với bệnh nhân không rối loạn tri giác (KTC 95% 2,02 – 13,69; p=0,001).

Bệnh nhân có xuất hiện tổn thương thận cấp có tỉ số chênh gấp 5,3 lần so với bệnh nhân có chức năng thận bình thường (KTC 95% 1,98 – 12,22;

p=0,001). OR của yếu tố nhiễm trùng huyết đa tác nhân là 5,5 (KTC 95% 1,03 – 28,8; p=0,046)

BÀN LUẬN

Có 51,6% bệnh nhân trong nghiên cứu nhập ICU; 35,3% bệnh nhân tử vong. Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy nhiễm trùng huyết trên bệnh nhân HIV/AIDS là một bệnh nặng, nguy cơ tử vong cao. Gánh nặng bệnh tật của nhiễm trùng huyết ở bệnh nhân nhiễm HIV còn rất lớn, 45,1% bệnh nhân cần can thiệp oxy liệu pháp lưu lượng thấp (oxy mũi, oxy mask);

21,7% bệnh nhân phải đặt nội khí quản – thở máy và cần sử dụng thuốc vận mạch.

Hình 2. Tỉ lệ tử vong của bệnh nhân HIV/AIDS bị nhiễm trùng huyết

*: tỉ lệ tử vong của nhiễm trùng huyết sau 4 tuần theo dõi So sánh với các nghiên cứu khác nhau ở khu vực và thế giới (Hình 2), tỉ lệ tử vong ở bệnh nhân nhiễm trùng huyết ở bệnh nhân HIV trong nghiên cứu chúng tôi cao hơn(6,7,8). Do đó, cần có nhiều những nổ lực trong vấn đề chẩn đoán và điều trị bệnh nhân nhiễm trùng huyết để giảm tỉ lệ tử vong trên nhóm bệnh nhân đặc biệt này.

Chúng tôi phân tích một số đặc điểm của nhóm bệnh nhân nhiễm trùng huyết tử vong so sánh với những nhân sống. Ở nhóm tử vong, tỉ lệ bệnh nhân có sốc (56,9% so với 7,6%; p <0,001),

suy hô hấp (78,5% so với 17,6%, p <0,001), rối loạn tri giác (47,7% so với 16%, p <0,001), tổn thương thận cấp (49,2% so với 13,4%, p <0,001) và nhiễm trùng huyết đa tác nhân (10,8% so với 3,4%, p=0,043) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với bệnh nhân không tử vong (Bảng 2). Tuy nhiên khi đưa vào phân tích đa biến, có 4 yếu tố liên quan đến tỉ lệ tử vong là tình trạng suy hô hấp, rối loạn tri giác, tổn thương thận cấp và nhiễm trùng huyết đa tác nhân (Bảng 5).

Hai hội chứng còn lại của nhiễm trùng huyết theo Sepsis – 3 là vàng da (59,1% so với 46,7%;

(6)

p=0,376) và giảm tiểu cầu (35,4% so với 33,6%, p=0,809) thì không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tử vong và không tử vong.

Ở đặc điểm vàng da, chỉ những bệnh nhân nào có triệu chứng vàng da trên lâm sàng thì mới được bác sĩ lâm sàng cho làm xét nghiệm bilirubin để khẳng định, chứ xét nghiệm này không phải là xét nghiệm thường quy thực hiện ở mọi bệnh nhân. Do đó có thể dẫn đến sai lệch trong tỉ lệ vàng da giữa 2 nhóm nhiễm trùng huyết chúng tôi phân tích. Giảm tiểu cầu được ghi nhận với tỉ lệ như nhau giữa nhóm bệnh nhân tử vong và sống còn. Tổng điểm đánh giá chức năng suy cơ quan SOFA của nhóm bệnh nhân tử vong cao hơn so với bệnh nhân sống sót (9 điểm so với 4 điểm, p <0,05) (Bảng 2).

Trong nghiên cứu, chúng tôi vẫn chưa ghi nhận được sự khác biệt về số lượng tế bào lympho T CD4, tỉ lệ bệnh nhân trong giai đoạn AIDS giữa nhóm bệnh nhân tử vong và sống.

Điều này có thể do số lượng bệnh nhân trong dân số nghiên cứu chúng tôi đa phần trong giai đoạn AIDS (tỉ lệ AIDS trong dân số nghiên cứu là 87,2%) nên chưa phân tích rõ ràng được mối liên hệ giữa tế bào lympho T CD4 và tiên lượng sống còn của bệnh nhân.

Mối liên quan giữa thời gian máu cấy dương tính và tỉ lệ tử vong có khác nhau giữa các nghiên cứu. Theo nghiên cứu đoàn hệ FABLED, về các yếu tố tiên lượng tử vong của bệnh nhân nhiễm trùng huyết, thời gian cấy máu dương tính không tương quan với tỉ lệ tử vong(9). Nghiên cứu của Ning Y lại cho thấy có sự khác biệt về thời gian cấy máu dương tính và tỉ lệ tử vong ở các bệnh nhân nhiễm trùng huyết do các nhóm tác nhân như trực khuẩn đường ruột, P.aeruginosa<(10). Do đó, chúng tôi tiến hành phân tích thời gian cấy máu dương tính giữa nhóm tử vong và sống còn trong nghiên cứu.

Trong nghiên cứu, thời gian cấy máu dương tính giữa nhóm bệnh nhân tử vong và bệnh nhân sống còn khác nhau không có ý nghĩa thống kê.

Khi so sánh trong nhóm vi khuẩn, không có sự khác biệt về tỉ lệ tử vong giữa nhóm vi khuẩn

gram dương và vi khuẩn gram âm. So sánh trong nhóm vi nấm, tử vong do nhóm nhiễm trùng huyết do nấm hạt men cao hơn so với nhóm nhiễm trùng huyết do nấm sợi (T.

marneffei). Cả 2 bệnh nhân nhiễm nấm Candida máu đều tử vong. C. neoformans thường đi kèm với viêm màng não, đây là một tình trạng bệnh lý nặng nên có thể đi kèm với tỉ lệ tử vong cao.

Nấm C. neoformans đáp ứng chậm với điều trị, nhiều trường hợp phải điều trị kháng nấm kéo dài hơn 2 tuần so với phác đồ Bộ Y tế. Loài nấm này có khả năng tái phát cao. Do đó có thể khiến cho tỉ lệ tử vong cao ở nhóm bệnh nhân nhiễm C. neoformans.

Bệnh nhân bị nhiễm trùng huyết đa tác nhân có tỉ lệ tử vong cao. Tuy nhiên, không phải mọi mẫu cấy máu đều phân lập được các tác nhân kịp thời, chính xác. Đặc biệt, ở bệnh nhân nhiễm HIV, các tác nhân như nấm (T. marneffei, Histoplasma capsulatum), vi khuẩn lao hoặc vi khuẩn họ Mycobacterium có thời gian mọc chậm, khả năng dương tính thấp với quy trình cấy hiện tại của đa số các bệnh viện. Để tối ưu khả năng phân lập được tác nhân từ đó giúp việc điều trị được sớm và chính xác, cấy máu ở bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS nghi ngờ nhiễm trùng huyết có thể áp dụng các kỹ thuật như MYCO/FLytic medium (BACTEC), BacT/ALERT MB (với chai cấy máu BACTEC Plus Aerobic/F, BT/ALERT MB) hoặc các hệ thống nuôi cấy có sử dụng hệ thống ly tâm cô lập để có thể giảm thời gian cấy máu dương tính hoặc tăng khả năng phát hiện các tác nhân khác(11,12,13).

KẾT LUẬN

Nhiễm trùng huyết ở bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS có tỉ lệ tử vong cao (35,5%). Đánh giá các tổn thương cơ quan có ý nghĩa tiên lượng tử vong của bệnh. Cần tối ưu hóa việc phân lập tác nhân gây bệnh nhiễm trùng huyết cơ địa nhiễm HIV/AIDS sẽ giúp điều trị đặc hiệu sớm và chính xác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Lê Như Tùng (2008). Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng nhiễm trùng huyết trên bệnh nhân người lớn nhiễm

(7)

HIV/AIDS tại bệnh viện Bệnh Nhiệt đới từ tháng 1/2005 đến tháng 12/2006. Luận Văn Thạc Sĩ Y Học, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

2. Aluisio AR, Garbern S, Wiskel T, Mutabazi Z A, Umuhire O, et al (2018). Mortality outcomes based on ED qSOFA score and HIV status in a developing low income country. Am J Emerg Med, 36(11):2010-2019.

3. Medrano J, Álvaro-Meca A, Boyer A, Jiménez-Sousa MA, Resino S (2014). Mortality of patients infected with HIV in the intensive care unit (2005 through 2010): significant role of chronic hepatitis C and severe sepsis. Crit Care, 18(4):475.

4. Bộ Y Tế (2019). Hướng dẫn điều trị và chăm sóc HIV/AIDS, 2019: Quyết định số 5456/QĐ-BYT ngày 20/11/2019.

5. Singer M, Deutschman CS, Seymour CW, Shankar-Hari M, Annane D, et al (2016). The Third International Consensus Definitions for Sepsis and Septic Shock (Sepsis-3). JAMA, 315(8):801-10.

6. Ortega M, Almela M, Soriano A, Marco F, Martínez JA, et al (2008). Bloodstream infections among human immunodeficiency virus-infected adult patients: epidemiology and risk factors for mortality. Eur J Clin Microbiol Infect Dis, 27(10):969-76.

7. Kiertiburanakul S, Watcharatipagorn S, Chongtrakool P, Santanirand P (2012). Epidemiology of bloodstream infections and predictive factors of mortality among HIV-infected adult patients in Thailand in the era of highly active antiretroviral therapy. Jpn J Infect Dis, 65(1):28-32.

8. Taramasso L, Tatarelli P, Di Biagio A (2016). Bloodstream infections in HIV-infected patients. Virulence, 7(3):320-8.

9. Paquette K, Sweet D, Stenstrom R, Stabler SN, Lawandi A, et al (2021). Neither Blood Culture Positivity nor Time to Positivity Is Associated With Mortality Among Patients Presenting With Severe Manifestations of Sepsis: The FABLED Cohort Study.

Open Forum Infectious Diseases,

https://doi.org/10.1093/ofid/ofab321.

10. Ning Y, Hu R, Yao G, Bo S (2016). Time to positivity of blood culture and its prognostic value in bloodstream infection. Eur J Clin Microbiol Infect Dis, 35(4):619-24.

11. Gary VD (2021). Detection of bacteremia: Blood cultures and

other diagnostic tests. URL:

https://www.uptodate.com/contents/detection-of-bacteremia- blood-cultures-and-other-diagnostic-

tests?search=Detection%20of%20bacteremia:%20Blood%20cultu res%20and%20other%20diagnostic%20tests&source=search_res ult&selectedTitle=1~150&usage_type=default&display_rank=1.

12. Arendrup MC, Boekhout T, Akova M, Meis JF, Cornely OA, et al (2014). ESCMID and ECMM joint clinical guidelines for the diagnosis and management of rare invasive yeast infections.

Clin Microbiol Infect, 20:376-98.

13. Ellen JB (2005). Cumitech #1c Blood Cultures IV, pp.1-32.

American Society for Microbiology.

Ngày nhận bài báo: 30/11/2021

Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 10/02/2022 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2022

Referensi

Dokumen terkait

Tuy nhiên có sự khác biệt về quần thể nghiên cứu, đối với nhóm nghiên cứu của chúng tôi là bệnh nhân nhập khoa ĐTTC với những đặc điểm chính; tuổi dưới 12 tháng,tình trạng sốc nhiễm

TNU Journal of Science and Technology 22508: 274 - 279 MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TĂNG NỒNG ĐỘ GLUCOSE HUYẾT TƯƠNG Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ SAU HÓA TRỊ TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI

Một đánh giá có hệ thống của Osawa và Singh đưa ra kết luận: bệnh CMV trên BN nặng tại HSCC liên quan tới viêm gan, rối loạn chức năng hô hấp, tổn thương thận; tăng thời gian nằm HSCC,

Mô tả các đặc điểm chung, đặc điểm lâm sàng ở nhóm nghiên cứu: Bệnh nhân được hỏi về tiền sử mắc bệnh lý mạn tính như các bệnh lý tim mạch tăng huyết áp, suy tim, bệnh động mạch ngoại

Bệnh nhân có càng nhiều triệu chứng vận động và thời gian mắc bệnh kéo dài thì điểm GUSS càng thấp, tương ứng với mức độ rối loạn nuốt nặng hơn.. Từ khoá: Rối loạn nuốt, GUSS, bệnh

ĐẶC ĐIỂM VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NHIỄM KHUẨN HUYẾT CẤY MÁU DƯƠNG TÍNH Ở BỆNH NHÂN THẬN NHÂN TẠO CHU KỲ TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT Nguyễn Bách1, Trần Nữ Thùy1, Phạm Thị Lan Hương1 TÓM

KHẢO SÁT BIẾN CHỨNG NHIỄM TRÙNG LIÊN QUAN ĐẾN CATHETER LỌC MÁU Ở BỆNH NHÂN SUY THẬN GIAI ĐOẠN CUỐI TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC Khiếu Thị Hồng Nhung1, Đặng Thị Việt Hà2,3, Đỗ Gia

Kết quả của chúng tôi cũng khác với tác giả Thân Hồng Anh trên đối tượng bệnh nhân cùng bệnh viện 175 nhưng khác khoa phòng là: số thuốc huyết áp trung bình mà bệnh nhân sử dụng: 1,7,