• Tidak ada hasil yang ditemukan

1. Mở đầu - Cơ sở dữ liệu quốc gia về Khoa học và Công nghệ

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "1. Mở đầu - Cơ sở dữ liệu quốc gia về Khoa học và Công nghệ"

Copied!
8
0
0

Teks penuh

(1)

13 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn

LỜI DẠY CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH MÃI MÃI SOI ĐƯỜNG CHO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI PHÁT TRIỂN

Nghiêm Đình Vỳ

Nguyên Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương

Tóm tắt. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm tới giáo dục, công tác đào tạo giáo viên… Cán bộ, giảng viên của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (ĐHSPHN) vinh dự được nhiều lần làm việc và nói chuyện với Người. Những lời căn dặn của Người luôn thấm nhuần giá trị nhân văn và thể hiện tầm vóc của chiến lược phát triển giáo dục nói chung, ngành sư phạm nói riêng. Đối với Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (ĐHSPHN), đây không chỉ góp phần xác định sứ mạng mà luôn là cơ sở nền tảng để Nhà trường xây đắp những giá trị cốt lõi và tầm nhìn trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Trên cơ sở tìm hiểu nội dung những bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Trường, bài viết hướng tới phân tích việc vận dụng tư tưởng về giáo dục của Người trong quá trình xây dựng và phát triển Trường ĐHSPHN.

Từ khóa: tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục, đào tạo giáo viên, Trường ĐHSPHN.

1. Mở đầu

Từ chính trong quá trình trưởng thành và hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thấy vai trò to lớn của giáo dục. Người từng là thầy giáo Nguyễn Tất Thành ở trường Dục Thanh (1910), thầy Vương ở các lớp huấn luyện tại Quảng Châu (1925 - 1927) đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng trong và ngoài nước. Người cũng là thầy giáo dạy chữ cho cán bộ ở Pác Bó (1941) với mục tiêu “học chữ để làm người cách mạng”. Sau này, Hồ Chí Minh thường xuyên đến thăm các lớp xóa mù chữ, bình dân học vụ, các trường phổ thông, đại học, các lớp bồi dưỡng giáo viên… Người đã đề xuất phong trào “Hai tốt” (dạy tốt, học tốt) của ngành giáo dục.

Có thể nói, hiếm có một nguyên thủ quốc gia nào đặc biệt quan tâm đến giáo dục, chăm lo đến thầy giáo, cô giáo, học sinh các cấp như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nếu làm một bảng thống kê đầy đủ, chúng ta sẽ nhận thấy tỉ lệ các bài viết liên quan đến giáo dục chiếm một tỉ lệ không nhỏ trong tổng số các tác phẩm của Hồ Chí Minh. Chúng tôi chưa tập hợp được đầy đủ những cuộc đi thăm, làm việc của Bác đến các lớp học chống mù chữ, bổ túc văn hoá, các trường, lớp học từ mẫu giáo, vỡ lòng đến phổ thông, đại học, các cuộc hội nghị về giáo viên, những buổi họp mặt, gặp gỡ với thầy, cô giáo, những nhà quản lí giáo dục… nhưng chắc chắn con số này rất nhiều.

Là trường đại học sư phạm đầu tiên trong nền giáo dục cách mạng của nước Việt Nam mới mang sứ mạng đào tạo giáo viên cho tất cả các cấp học, Trường ĐHSP Hà Nội được nhiều lần đón Hồ Chủ tịch về thăm và làm việc. Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, nhà trường cũng luôn hưởng ứng và tham gia tích cực các phong trào thi đua lớn do Người phát động nhằm thực hiện những nhiệm vụ chính trị của cả nước như Phong trào thi đua Hai tốt, Vì miền Nam ruột thịt… Trên cơ sở tìm hiểu nội dung những bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Trường,

Ngày nhận bài: 2/7/2021. Ngày sửa bài: 29/8/2021. Ngày nhận đăng: 10/9/2021.

Tác giả liên hệ: Nghiêm Đình Vỳ. Địa chỉ e-mail: [email protected]

(2)

14

bài viết hướng tới phân tích việc vận dụng tư tưởng về giáo dục của Người trong những hoạt động giảng dạy, học tập, nghiên cứu và các phong trào thi đua cụ thể của cán bộ, giảng viên và sinh viên nhà trường trong hiện tại và tương lai.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Những lần thăm và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh với cán bộ, giảng viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Một trong những vinh dự to lớn và đặc biệt của Đại học Sư phạm Hà Nội (ĐHSPHN) đã được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm trường. Hai lần Người tới các trường đại học, trong đó có Đại học Sư phạm. Lần thứ nhất là ngày 14/11/1955, Bác Hồ nói chuyện với sinh viên Đại học Sư phạm Văn khoa, Đại học Sư phạm khoa học, Đại học Y Dược. Lần thứ hai làm việc với cán bộ nhà Trường vào ngày 23/5/1957, Bác cùng với đồng chí K.Y.Vôrôsilốp (là Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô) tại khu Đại học trên phố Lê Thánh Tông. Có 350 cán bộ và 2.400 sinh viên của 5 trường: Sư phạm, Y- Dược, Bách Khoa, Nông Lâm, Tổng hợp và cơ quan bộ giáo dục được gặp Bác. Thời gian từ 1956 đến 1958 Đại học Sư phạm và Đại học Tổng hợp vẫn chung giảng đường, chung khoa, chung cán bộ. Người căn dặn cán bộ giáo viên về cách dạy dỗ phải xuất phát từ tình yêu thương, kiên nhẫn thuyết phục học trò,... Lần thứ ba ngày 4/3/1960 và lần thứ tư ngày 21/10/1964, Bác đến thăm riêng ĐHSPHN tại địa bàn trường đóng hiện nay. Lúc ấy trường ở ngoại ô thành phố, có địa chỉ Km số 8 đường Hà Nội đi Sơn Tây, thuộc huyện Từ Liêm xưa. Phải chăng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn ĐHSPHN, vì Người đã đánh giá ngôi trường được coi là “máy cái” trong ngành Giáo dục, trong sự nghiệp “trồng người”?

Tư liệu lưu trữ về sự kiện trọng đại này còn hiếm hoi. Các thế hệ thầy giáo cô giáo được gặp Bác giờ đây cũng đã không còn. Thế hệ trẻ của Trường ĐHSPHN chỉ có thể cảm nhận được niềm vinh dự đó thông qua các trang hồi kí của các thế hệ cha anh. Trong tập Hồi kí Đại học Sư phạm một nửa thế kỉ (2001), thầy Nguyễn Cao Sơn đã chia sẻ: “không thể quên ngày Bác Hồ đến thăm Trường (năm 1960). Mọi người từ các lớp đang học, từ các khu tập thể, kể cả cán bộ chuyên gia Liên Xô lúc đó đến giảng dạy, đều đổ xô về Hội trường lớn để đón Bác. Nhiều người vội vã đến nỗi giày dép tụt cũng mặc kệ, cứ chân không mà chạy. Giày dép bỏ vương vãi rải rác trên mặt đường rải đá” [1; 535-536].

Ngày 21-10-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Tổng thống Mali Môđibô Câyta vào Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Người có nói chuyện với các thầy cô giáo, sinh viên và cán bộ, công nhân viên của trường. Đầu tiên Bác nói: “Vì bận nhiều việc, Bác ít đến thăm nhà trường. Bác tự phê bình trước các cô giáo, thầy giáo, các cháu học sinh, các đồng chí cán bộ, công nhân viên. Các cô, các chú phải cảm ơn Tổng thống Câyta, vì hôm nay có Tổng thống đến thăm trường, Bác không thể không đến được. Nhân dịp này, Bác có lời cảm ơn các đồng chí chuyên gia Trung Quốc, Liên Xô và Niu Dilân đến giúp đỡ các cô giáo, thầy giáo và giúp các cháu học tập” [2, 329].

Tiếp đến Bác nêu ba ưu điểm của trường. Đó là: Mọi người đều có tinh thần khắc phục khó khăn, là điều tốt; Day học đã chú ý đến đức và tài; Trường có phong trào thi đua “hai tốt” vào loại khá. Bác có nhắc đến “có mấy trăm cô giáo, thầy giáo thanh niên xung phong đi miền núi, để đưa cái hiểu biết văn hóa lên cho đồng bào miền rẻo cao”. Bác kể: có cháu gái, cháu trai lên vùng cao dạy học. Bác coi đó là “một cô giáo”, “thày giáo anh hùng”. Người khen: “Những kết quả tốt đó đều là công lao của nhà trường, của các cô giáo, thầy giáo” [2, 330].

Sau đó Bác nhắc lại: “Lần trước đến thăm trường, Bác có nói 2 điểm: một là vệ sinh, hai là trồng cây. “Về vệ sinh ở đây còn kém! Về trồng cây, Bác bảo nên trồng cây nhiều. Nhưng hiện nay cây sống ít... Các cô, các chú và các cháu phải làm cho vườn của trường thành một vườn

(3)

15 hoa, vườn cây tươi đẹp. Đã hứa với Bác thì phải làm, làm thì phải có tổ chức. Vệ sinh cũng như trồng cây, có tổ chức thì nhất định làm được tốt.” [2, 330-331].

Kết thúc buổi nói chuyện Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ và học sinh 6 điểm: 1-“Trước hết là phải đoàn kết...”. 2-Về phương pháp học tập: “Các cháu học sinh không nên học gạo, không nên học vẹt... Học với hành phải kết hợp với nhau”. 3-“Cần phải giữ gìn kỉ luật cho tốt, phải sạch sẽ, gọn gàng. Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do, chống lề mề, luộm thuộm”. 4-“Thầy cũng như trò, cán bộ cũng như nhân viên, phải thật thà yêu nghề mình. Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. 5-Một điểm nữa là các cháu gái chưa được giúp đỡ tốt. Cô giáo, thầy giáo trong chế độ ta cần phải góp phần vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Phải có chí khí cao thượng, phải “tiên ưu hậu lạc” nghĩa là khó khăn thì phải chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ. Đây là đạo đức cách mạng”. 6-“Trong việc học tập cũng như trong mọi việc, đảng viên và đoàn viên của nhà trường cần phải xung phong gương mẫu, phải giúp đỡ anh em, chị em cùng tiến bộ” [2, 330-332]. Người cũng nói, trường có gần 4.000 học sinh, 1/4 là nữ, 100 học sinh đồng bào thiểu số, vậy còn ít, cần dần dần có thêm. Có 800 học sinh miền Nam, như vậy là rất tốt, dần dần phải thêm nữa. Bác yêu cầu mọi người phải làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt”.

“Cuối cùng, Bác mong các cô, các chú và các cháu nhớ làm được những điều kể trên. Tất cả thầy trò, cán bộ, công nhân phải phấn khởi thi đua phát triển ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, làm thế nào để nhà trường này chẳng những là trường sư phạm mà còn là trường mô phạm của cả nước” [2, 332].

2.2. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội thực hiện lời dạy của Người

Nghiên cứu các bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng tôi thấy có hai điểm rất căn bản mà Người căn dặn cán bộ, giảng viên Trường ĐHSPHN thực hiện để phát triển toàn diện nhà trường.

Thứ nhất, “Nghề thầy giáo là rất quan trọng, rất là vẻ vang”

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh - hệ thống quan điểm về cách mạng Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa - tư tưởng về giáo dục chiếm một vị trí quan trọng. Những quan điểm, tư tưởng về giáo dục của Hồ Chí Minh là một bộ phận hữu cơ của tư tưởng Hồ Chí Minh, được hình thành trong quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta và của Hồ Chí Minh. Tư tưởng này không chỉ thể hiện mục tiêu, lí tưởng cách mạng, quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng ta mà còn phản ánh tình cảm, nguyện vọng cao cả của Hồ Chí Minh như Người đã từng nói: “Vì lợi ích mười năm, thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm, thì phải trồng người” [3, 222].

Nhiệm vụ “trồng người” quan trọng thì vai trò của “người trồng” càng quan trọng. Trong bài nói chuyện, Bác đã nhấn mạnh đến vai trò của người thầy giáo: “Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩ cộng sản? Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều vẻ vang. Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được? vì vậy nghề thầy giáo là rất quan trọng, rất là vẻ vang” [2, 329]. Nhà giáo vẫn thực sự là lực lượng nòng cốt trong ngành giáo dục, là nhân tố quyết định cho những thành công của giáo dục nước nhà, đóng góp quan trọng vào việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trước đó, trong “Thư gửi anh chị em giáo viên bình dân học vụ” vào tháng 5/1946 Bác Hồ đã đánh giá rất cao vị trí, vai trò của người thầy giáo. Người viết: “Anh chị em là những người

“vô danh anh hùng”. Tuy vô danh nhưng rất hữu ích. Một phần tương lai của dân tộc nước nhà

(4)

16

nằm trong sự cố gắng của anh chị em”;... “để mở mang tri thức phổ thông cho đồng bào, để xây đắp nền văn hóa sơ bộ cho đân tộc”;... “cái vinh dự đó thì tượng đồng, bia đá nào cũng không bằng” [4, 329].

Lời căn dặn của Người đã trở thành niềm tự hào và mục tiêu phấn đấu không biết mệt mỏi của lớp lớp các thế hệ giáo viên của Trường ĐHSPHN trong suốt quá trình xây dựng và phát triển trong 70 năm qua. Trường đã đào tạo hàng chục vạn giáo viên các cấp, các chuyên gia giáo dục, trong đó có nhiều nhà hoạt động chính trị có uy tín, nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, mà tên tuổi của họ mãi làm rạng danh nền học vấn nước nhà. Không chỉ trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Trường ĐHSPHN đã tham gia tích cực vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch:

“Tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Hàng nghìn sinh viên và cán bộ ưu tú đã “xếp bút nghiên lên đường ra trận” và nhiều người đã anh dũng hi sinh, hàng trăm giáo viên và sinh viên đã “vượt Trường Sơn” vào miền Nam xây dựng nền giáo dục cách mạng ở vùng giải phóng… Trong những năm đầu của phong trào Ba sẵn sàng, hàng nghìn sinh viên của Trường đã có mặt trên tiền tuyến lớn miền Nam, “chảo lửa” khu IV, và trên mặt trận khoa học kĩ thuật phục vụ xây dựng và chiến đấu. Một phần lớn phiên dịch viên tiếng Nga cho các binh chủng phòng không – không quân, tên lửa, thông tin hóa học theo yêu cầu của Bộ Quốc phòng lúc này là sản phẩm đào tạo của khoa tiếng Nga, Trường ĐHSPHN [5, 33-34]. Bảy mươi năm qua, Trường ĐHSPHN đã đạt được những thành thành tựu to lớn, được Đảng, Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý. Tại Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 1962, Trường được công nhận là một trong những Đơn vị thi đua tiên tiến xuất sắc nhất của cả nước và được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Hai. Năm 1965, nhà trường được Bộ Giáo dục tặng cờ “Thi đua xuất sắc nhất ngành giáo dục” trong việc hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Trong thời kì Đổi mới, Nhà trường cũng vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh (năm 2001, 2011), Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Anh hùng Lao động trong thời kì đổi mới năm 2004… vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong công tác, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc… Nhiều tập thể, cá nhân của nhà trường và nhà trường đã nhận các phần thưởng, danh hiệu cao quý của Đảng, Nhà nước trao tặng như: Huân chương Độc lập hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương Lao động hạng Nhất...

Giờ đây vai trò, vị trí của đội ngũ giáo viên nói trên cần phải được giữ gìn và phát huy.

Thực hiện lời Bác dạy, Nhà trường sẽ phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục làm chuyển biến nhận thức của xã hội, của phụ huynh và của người học về vị trí, vai trò của thầy giáo đối với sự nghiệp trồng người, từ đó thực hiện nhiệm vụ thu hút được nhiều người giỏi đến công tác và học tập tại trường. Trong các năm học 2020-2021 và 2021-2022, Trường đã đón nhận gần 5000 sinh viên có thành tích học tập và điểm thi tốt nghiệp THPT xuất sắc.

Thứ hai, “Làm thế nào để Nhà trường này chẳng những là trường sư phạm mà còn là trường mô phạm của cả nước.”

Theo chúng tôi hiểu, Người nói “trường mô phạm” trước hết là đề cập đến con người - chủ thể trong Nhà trường, chính là cán bộ, giáo viên, công nhân viên, học sinh, sinh viên. Người đòi hỏi ở những chủ thể trường phải là khuôn mẫu, chuẩn mực về cả đạo đức, trình độ chuyên môn, gương mẫu về mọi mặt như “phải góp phần vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, phải có chí khí cao thượng, phải “tiên ưu hậu lạc”. Quá trình “dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng. Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân”. Trong nhà trường sư phạm cũng cần xây dựng “đoàn kết thật sự, giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa trò và trò, giữa cán bộ và công nhân. Toàn thể nhà trường phải đoàn kết thành một khối, đoàn kết phải thật sự trăm phần trăm chứ không phải chỉ là đoàn kết

(5)

17 miệng” [2, 329]. Do vậy, thực hiện lời dạy của Bác Hồ cần gắn liền với việc sinh hoạt tư tưởng chính trị, tạo chuyển biến sâu sắc về đạo đức nhà giáo trong Nhà trường. Người thầy không những có trách nhiệm giảng dạy các bộ môn, chỉ đạo nghiên cứu, thực nghiệm khoa học và rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp cho sinh viên, mà còn có trách nhiệm giáo dục tư tưởng và đạo đức, chăm lo đến sự phát triển toàn diện của học sinh, sinh viên. Đồng thời, tiếp tục xây dựng đạo đức giáo viên, giáo dục lí tưởng nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp giáo viên; tăng cường tinh thần trách nhiệm, tinh thần sứ mạng của người thầy dạy học rèn người. Người thầy phải yêu mến học sinh, chuyên cần, không màng danh lợi, tự tôn nghiêm khắc với bản thân, cảm hóa học sinh sinh viên bằng sức hút của nhân cách và tri thức, làm người dẫn đường và hướng dẫn cho sự trưởng thành lành mạnh của thế hệ trẻ.

Nhìn lại đội ngũ giáo viên của cả nước hiện nay và của Trường ĐHSPHN, có thể nhận thấy Trường ĐHSPHN vẫn luôn là một trong những trường có đội ngũ cán bộ giảng viên có trình độ cao, với trên 60% giảng viên có trình độ tiến sĩ, trong đó số giảng viên có học hàm giáo sư và phó giáo sư chiếm tỉ lệ 24,2% [6, 5]. Các cán bộ giảng viên nhà trường luôn có lòng yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác giáo dục, có ý chí vươn lên, tích cực học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Nhiều giảng viên của Trường là những chuyên gia đầu ngành có uy tín không chỉ trong nước, mà cả trong khu vực và trên thế giới.

Bên cạnh đó, cần hiểu rộng lời Bác nói về xây dựng Trường ĐHSPHN trở thành trường

“mô phạm” không chỉ bao hàm việc nhà trường cần trở thành trường mẫu mực của cả nước về mô hình đào tạo giáo viên, về năng lực, phẩm chất của người thầy, mà còn cả cách dạy và cách học. Hồ Chủ tịch đã yêu cầu sinh viên: “không nên học gạo, không nên học vẹt. Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”. Đây chính là vấn đề năng lực của người giáo viên mà trường Sư phạm cần đào tạo.

Trước đó, đã rất nhiều lần Người đã đề cập tới vấn đề năng lực của học sinh như trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào tháng 9 - 1945. Hồ Chí Minh đã viết: “…từ giờ phút này giở đi các em bắt đầu nhận được một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam,… một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em.” Ngày 1-6-1955 khi gửi thư cho các cháu và các cán bộ các trường Miền Nam, Bác viết: “Các cháu nên tập tự lực cánh sinh cho quen” [7, 80]. Thực hiện tư tưởng của Người, Đại hội Đảng bộ của Trường (tháng 10-11/1969) đã đề ra yêu cầu: “Phải phát huy nỗ lực chủ quan của thầy và trò, tập trung lãnh đạo khâu học tốt, biến quá trình đạo tạo của trường thành quá trình tự đào tạo tích cực của mỗi sinh viên” [5, 52]. Kể từ năm 2019, chương trình đào tạo của Trường hướng đến việc tăng cường kĩ năng thực tế chuyên sâu (chuyên ngành); tăng thời lượng thực hành, thực tập; đảm bảo 25% thời lượng dành cho đào tạo và rèn luyện năng lực sư phạm cho sinh viên.

Cùng với việc phát triển năng lực dạy học, nhiều vấn đề trong tư tưởng của Người sẽ cần phải tiếp tục quán triệt, thực hiện để giải quyết những bức xúc trong xã hội hiện nay. Bức thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niêm và nhi đồng ngày 31/10/1955, Hồ Chủ tịch đã nhắc là phải tẩy sạch ảnh hưởng của “học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ”; Người chỉ rõ: “Tiểu học thì cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ có gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn”. “ Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế” [7, 81]. Rõ ràng, công tác đào tạo giáo viên của ĐHSP cần ghi nhớ những vấn đề Người đã căn dặn để Trường ĐHSPHN xứng đáng là trường “mô phạm” trong các trường Sư phạm.

Tiếp tục thực hiện lời dạy của Bác khi đến thăm trường, với mong muốn nhà trường liên tục phát triển, chúng tôi xin mạnh dạn kiến nghị vài điều nhỏ dưới đây.

(6)

18

Một là, Bác Hồ nói “Nghề thầy giáo là rất quan trọng” nay vẫn nguyên giá trị và càng quan trọng hơn nữa khi những yêu cầu mới đang đặt ra trong quá trình đổi mới giáo dục. Trường Sư phạm cần đào tạo giáo viên không chỉ là người giảng dạy đơn thuần, mà còn có vai trò là người thiết kế, cố vấn, huấn luyện và tạo ra môi trường học tập cho học sinh, sinh viên. Xu thế phát triển giáo dục trên thế giới và thực tiễn ở Việt Nam đang đặt ra yêu cầu lớn phải biến đổi vai trò giáo viên – từ người trình bày kiến thức theo cách truyền thống, sang vai trò mới với tư cách người xúc tác và điều phối, người thiết kế, huấn luyện và tạo ra môi trường học tập cho người học. Ngày nay, giáo viên phải giúp học viên điều chỉnh chất lượng và độ giá trị nguồn thông tin, kiến thức mới, phải là nhà chuyên môn biết phê phán, hợp tác, cộng tác tích cực và là người cung cấp cách hiểu theo kiểu “bắc cầu” cho người học [8].

Các nhà giáo dục chỉ ra, cần đào tạo người thày là cố vấn, biết tạo động cơ cho học sinh, sinh viên học nhanh hay chậm trong môi trường số. Người thầy phải hướng vào tác động lên việc học của người học để họ có tư duy, phản ánh và thực thi các kiến thức của họ, tức là có sự

“học tập trên Internet”, họ phải biết tìm thông tin thiết thực ở đâu, giải quyết vấn đề như thế nào và giữ cho việc học đúng đắn ra sao. Người giáo viên đươc đào tạo phải quan tâm đến nhu cầu của học viên trong lớp học, nhất là khi trình độ học sinh không đồng nhất, tạo môi trường học tập lấy “người học làm trung tâm”, để người học nỗ lực học tốt nhất và có cơ hội học tập một cách năng động, luôn tìm hiểu, khám phá, hỏi sâu vấn đề được học. Người thầy cần biết những loại kiến thức và kĩ năng nào để dạy cho từng sinh viên có năng lực khác nhau, hiểu biết động cơ học tập của người học.

Theo chúng tôi, giá trị của người giáo viên không chỉ là giảng bài hay, hấp dẫn theo nghĩa thông thường mà còn là hướng dẫn và xúc tác giúp học sinh, sinh viên biết tự định hướng trong việc học của họ. Cần đào tạo người thầy phải biết thường xuyên cải tiến phương pháp dạy học và không ngừng trau dồi học hỏi chuyên môn nghiệp vụ cùng với những phát triển mới. Giáo viên phải tìm ra các phương thức để người học phát triển các kĩ năng như học tương tác, học cộng tác và học độc lập giữa học sinh, sinh viên với nhau, biến đổi họ thành những người biết cách tự học và đổi mới suốt đời. Giáo viên cần quan tâm, đảm bảo môi trường xung quanh an toàn trên lớp học và duy trì mối quan hệ với người học, phụ huynh và cán bộ nhân viên.

Hai là, Người căn dặn học sinh, sinh viên “không nên học gạo, không nên học vẹt. Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế’; “các em bắt đầu nhận được một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam,… một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”.

Vì vậy, muốn dạy học cho sinh viên, học sinh được như Người mong muốn, chương trình đào tạo sinh viên Sư phạm sẽ cần được thiết kế theo hướng phát triển năng lực, chuyên nghiệp hóa.

Chương trình đào tạo ở đại học và phổ thông được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra. Khi thực hiện chương trình người thầy phải hiểu được sự khác nhau giữa “học về” và

“học để”; và thực hiện cái “học để” nhằm đạt kết quả đầu ra. Điều đó đòi hỏi một tiếp cận mới, tiếp cận năng lực, trong xây dựng chương trình đào tạo phải hướng tới việc phát triển ở giáo viên tương lai những năng lực cần thiết cho việc thực thi nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục trong trường phổ thông.

“Giáo viên tương lai, là nhà chuyên nghiệp dạy môn học cho học sinh chứ không phải là chuyên gia của môn học đó. Do đó, phải thiết kế một chương trình đào tạo giáo viên môn học phải khác với một chương trình đào tạo chuyên gia môn học và phải tính đến đặc thù đó của việc dạy học…” [9, 215-216]. Chương trình nên gồm ba thành phần chủ chốt, phải đảm bảo ba gắn kết: giữa các môn học với nhau, giữa lý thuyết với thực hành, giữa trường đại học sư phạm với trường phổ thông. Tuy nhiên, với định hướng hiện nay là tăng quyền tự chủ cho các trường đại học, thì trường đại học sư phạm, xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với sứ mệnh, triết lý và chiến lược phát triển riêng của nhà trường theo định hướng phát triển năng lực.

(7)

19 Trong việc đào tạo giáo viên theo hướng phát triển năng lực và chuyên nghiệp hóa giáo viên cần vận dụng công nghệ thông tin thật nhuần nhuyễn. Đào tạo người giáo viên với vai trò cố vấn, điều phối nói trên có quan hệ mật thiết với sử dụng công nghệ thông tin. Nó giúp cho những người thầy giỏi có thể tiếp cận cùng lúc với nhiều học sinh ở nhiều nơi, bất kể khoảng cách xa, gần. Từ trước giáo dục chủ yếu là cung cấp kiến thức, ngày nay khoa học phát triển như vũ bão, người thầy không thể cập nhật và truyền thụ kịp. Việc cung cấp kiến thức, dần dần sẽ do công nghệ thông tin đảm nhận, giải phóng người thầy khỏi sự thiếu hụt thời gian, để người thầy có thể tập trung giúp học sinh phương pháp tiếp cận và giải quyết vấn đề nhằm phát triển năng lực của học sinh. Người thầy cũng cần bắt buộc phải sử dụng nguồn lực công nghệ thông tin để gia tăng quá trình dạy-học.

Trong nghề nghiệp của giáo viên còn cần am hiểu về chương trình giáo dục phổ thông.

Hiện nay theo quy định thì chương trình là “pháp lệnh”, còn sách giáo khoa là hạt nhân của tài liệu dạy học. Do vậy cần đào tạo, bồi dưỡng giáo viên có năng lực phát triển chương trình môn học. Chương trình môn học là văn bản xác định vị trí, vai trò môn học và hoạt động giáo dục trong thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông, mục tiêu và yêu cầu cần đạt, nội dung giáo dục cốt lõi của môn học và hoạt động giáo dục ở mỗi lớp, nhóm lớp hoặc cấp học đối với tất cả học sinh trên phạm vi toàn quốc, định hướng kế hoạch dạy học môn học và hoạt động giáo dục ở mỗi lớp và mỗi cấp học, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, đánh giá kết quả giáo dục của môn học và hoạt động giáo dục. Giáo viên, sinh viên nhất định phải am hiểu chương trình. Cũng giống như khái niệm “chương trình giáo dục”, khái niệm “phát triển chương trình” luôn có sự tranh luận của nhiều luồng tư tưởng, nhiều quan điểm khác nhau và khó đi đến được sự thống nhất chung. Theo cách hiểu của đa số nhà giáo dục thì “Phát triển chương trình” giáo dục là quá trình biên soạn (hay xây dựng) tất cả các môn học trong một khóa học cụ thể. Nó bao gồm các hoạt động như: thiết kế nội dung, lập kế hoạch, ứng dụng thử nghiệm và nghiên cứu khoa học nhằm đưa ra những chương trình giáo dục mới hoặc cải thiện những chương trình giáo dục đã có. Như vậy, theo định nghĩa này, phát triển chương trình bao hàm cả việc biên soạn hay xây dựng một chương trình mới hoặc cải tiến một chương trình hiện có. Điều quan trọng là, để đảm bảo tính hiệu quả, chương trình giáo dục cũng cần được thiết kế, điều chỉnh sao cho phù hợp với sự thay đổi của xã hội, địa phương, nhà trường và người học. Kết quả nghiên cứu về các chương trình các nhà giáo dục đã thừa nhận một chương trình đào tạo giáo viên có hiệu quả thông qua một số yếu tố chung: chương trình được xây dựng bởi đội ngũ giảng viên và đồng nghiệp trường phổ thông cùng chia sẻ cách nhìn về bản chất của việc dạy học có hiệu quả và cách thức đào tạo sinh viên cho việc dạy học đó; chương trình có được sự hỗ trợ của ban giám hiệu nhà trường và hiệu trưởng các trường phổ thông thuộc cộng đồng mà trường sư phạm phục vụ; sinh viên được tiếp nhận, được gia nhập ngay cộng đồng các người dạy và người học; các yếu tố của chương trình được gắn bó chặt chẽ với nhau, lý thuyết gắn bó chặt chẽ với thực hành. Phát triển chương trình nhà trường còn được hiểu là quá trình nhà trường cụ thể hóa chương trình giáo dục quốc gia. Các chương trình đều có nguyên tắc là chương trình Mở, nên rất cần được vận dụng tùy theo tình hình các cơ sở giáo dục trên cơ sở bắt buộc phải bảo đảm những yêu cầu cần đạt.

Ở đây vai trò của giáo viên dạy phổ thông là cực kì quan trọng. Trên tinh thần đó chúng tôi đề nghị cần đào tạo giáo viên phải hiểu chương trình “xưa và nay”, đồng thời có năng lực xây dựng, phát triển chương trình giáo dục trong quá trình dạy học hôm nay và tương lai.

Như vậy, nhiệm vụ của nhà trường là cần đào tạo ra các giáo viên có phẩm chất nhân cách tốt đẹp, có năng lực: tìm hiểu đối tượng, tổ chức các hoạt động giáo dục, nắm vững kiến thức, kĩ năng, phương pháp dạy học, sử dụng công nghệ thông tin, tự học, tự nghiên cứu; phát hiện, giải quyết vấn đề giáo dục bằng nghiên cứu khoa học. Đó chính là những lĩnh vực cấu thành phẩm chất nghề nghiệp của người giáo viên trong nhà trường phổ thông hiện đại. Đây cũng là tinh thần của hoạt động đổi mới chương trình đào tạo đã và đang được Nhà trường triển khai, giữ vững vị trí “đầu tàu” trong quá trình đổi mới và hiện đại hóa nền giáo dục nước nhà.

(8)

20

3. Kết luận

Nghiên cứu nội dung những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi về thăm Trường ĐHSPHN và nhìn lại quá trình phát triển của nhà trường trong đào tạo giáo viên càng thấy thấm thía hơn giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Những lời dạy của Người đối với trường ĐHSP Hà Nội có ý nghĩa thực tiễn rất sâu sắc, mãi mãi soi đường cho giáo dục, cho trường Sư phạm phát triển. Hướng tới kỉ niệm 70 năm ngày thành lập Trường, toàn thể cán bộ, giảng viên, nghiên cứu sinh, cao hoc, sinh viên đã và đang công tác, học tập tại trường ĐHSP Hà Nội chắc chắn sẽ càng thấy cần thiết phải tiếp tục thực hiện lời Người căn dặn: Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt “để Nhà trường này chẳng những là trường sư phạm mà còn là trường mô phạm của cả nước”, để luôn tự hào đã được đào tạo và trưởng thành từ mái Trường ĐHSPHN.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nhiều tác giả, 2001. Đại học Sư phạm Hà Nội một nửa thế kỉ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

[2] Hồ Chí Minh, 2011. Toàn tập, tập 11. Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

[3] Hồ Chí Minh, 2011. Toàn tập, tập 9. Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

[4] Hồ Chí Minh, 2011. Toàn tập, tập 4. Nxb Chính trị Quốc gia, HN

[5] Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2011. 60 năm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1951- 2011, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.

[6] Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2020. Báo cáo tự đánh giá theo bộ chỉ số phát triển trường sư phạm, Tài liệu lưu hành nội bộ.

[7] Hồ Chí Minh, 2011. Toàn tập, tập 8. Nxb Chính trị Quốc gia, HN

[8] Weinberger, Fischer, & Mandl, 2002. Fostering individual transfer and knowledge convergence in text-based computer-mediated communication. In G. Stahl (Ed.) (tài liệu dịch của Mai Văn Tỉnh).

[9] Martinet, M. A., Raymond, D. & Gauthier, C., 2001. La formation à l’enseignement: Les orientations; Les compétences professionnelles. Québec: Ministère de l’Education. (Bản dịch do Mai Văn Tỉnh, nguyên chuyên viên cao cấp Vụ Đại học Bộ GD-ĐT cung cấp)

ABSTRACT

Ho Chi Minh's teaching will light up the development roadmap Hanoi National University of Education forever

Nghiem Dinh Vy Former Deputy Head of the Central Propaganda and Training Commission During his lifetime, President Ho Chi Minh always paid special attention to education and teacher training. Staff and lecturers of Hanoi National University of Education (HNUE) were proud to have many opportunities of working and talking with him. His teachings were always imbued with human values, showing the stature of the educational development strategy in general and pedagogy in particular. For HNUE, it not only makes a contribution to defining the mission but also lays the foundation for the University to build its core values and vision in the past, present and future. On the basis of understanding the content of the speeches of President Ho Chi Minh at the University, this paper aims to analyze the application of his thoughts on education during the process of building and developing the HNUE.

Keywords: Ho Chi Minh’s thought, education, teacher training, HNUE.

Referensi

Dokumen terkait

Quá trình thành lập Atlat giáo khoa địa lí tỉnh Hà Giang được tiến hành theo các bước: xác định mục đích thành lập, xây dựng bố cục Atlat, đánh giá nguồn tư liệu, xây dựng hệ thống nội

Thuật ngữ 'giáo dục song ngữ' đề cập tới mô hình giáo dục trong đó người học không chỉ học ngôn ngữ mà còn được học nội dung subject content và các kĩ năng khác thông qua ngôn ngữ đó,

Những di sản, tư tưởng về giáo dục của chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến trong nhiều hội thảo khoa học, các ấn phẩm về giáo dục, các tạp chí chuyên ngành về Khoa học giáo dục trong đó

Nội dung triết lí phát triển về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục được coi là kim chỉ nam định hướng, phát triển một nền giáo dục Việt Nam hiện đại mang tính mở, gắn với

Để đáp ứng yêu cầu đổi mới và những yêu cầu của giáo dục mầm non thì cần đảm bảo chất lượng của mỗi nhà giáo, một số nghiên cứu của các thành viên OECD Tổ chức Hợp tác Phát triển Châu

Tạo cơ chế huy động các nguồn vốn đầutư,cơsởvật chấtvà nâng cao nàng lực đào tạo nghề của các trung tâm giáo dục nghềnghiệp;nhất cáctrungtâm đào tạo các ngành nghề có nhu cầu cao của

Theo kết quả phân tích của chúng tôi, ba thành phần này của chủ đề PT, BPT trong chương trình môn Toán của CHDCND Lào chưa đầy đủ và cân đối: thành phần ứng dụng chưa có vai trò thích

* Từ những khái niệm thực hành, thực hành Sinh học, chúng tôi đưa ra khái niệm dạy học thực hành Sinh học như sau: Dạy học thực hành Sinh học là một quá trình sư phạm, thông qua các