GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN Lực TRONG BÔI CẢNH NỀN KINH TÊ SÔ TẠI VIỆT NAM
• NINH THỊ HOÀNG LAN
TÓM TẮT:
Cùng vớisựpháttriểncủa cuộc cách mạngcông nghiệp lần thứtư trong những năm gần đây, xu hướngchuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ ở hầu khắp các quốc gia trênthế giớitrong đó có Việt Nam. Kinh tế sốmang lại những cơ hội phát triển lớn, nhưng người lao động cần phải được chuẩn bị nhữngkỹ năngvànăng lực phù hợp với nhu cầu công việc trong tương lai. Bài viếtphân tích thực trạng của nguồn nhânlực Việt Nam,chỉra những tháchthứcmànguồnnhân lựcViệt Nam phải đối mặtđể đáp ứng cho sựphát triển của nền kinh tế sốthờigian tới, trêncơ sở đó đề xuấtmộtsố giải pháp nhằm phát triển nguồnnhân lực trong bối cảnh nền kinh tếsố tạiViệt Nam trong thờigian tới.
Từkhóa:nguồnnhân lực, kinhtế số.
1. Đặt vân đề
Cùngvớisự phát triển của cuộc cách mạngcông nghiệp lần thứ tư trong những năm gần đây, xu hướngchuyển đổisố đang diễn ra mạnhmẽ ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nền kinh tế - kỹ thuật số đượckỳ vọng sẽ đóngmột vai trò khôngthểthiếu trong việc duy trì đà tăng trưởng của đất nước. Mặc dù còn ở giai đoạnđầu củasựphát triển, nền kinh tế kỹthuật số củaViệt Nam đangthểhiệntiềm năng to lớn,được thúc đẩy bởi sự hỗ trợcủa Chính phủ,sựchấp nhận kỹ thuậtsố một cách nhanh chóng của người dân và cuối cùng là “chất xúctác” từ đạidịch Covid-19.
Nhận thức đượctầm quan trọngcủanền kinh tế -kỹ thuật số, Chínhphủ đã đưa ra nhiềubiện pháp khác nhau để khuyến khích tăng trưởng trong lĩnh vựcnày. Năm 2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúcđã ký Quyếtđịnh số749/QĐ-TTg phê
duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, đề ra mục tiêu đến năm 2030 của cả nước. Các biện pháp bao gồm cải thiện cơ sở hạ tầng internet và khả năng tiếp cận các dịch vụ 5G, sô' hóa chínhphủ và ứng dụng công nghệ cho các lĩnh vực kinhtế - xãhội khácnhau.Đếnnăm 2030, Chính phủ kỳ vọng nền kinh tế - kỹ thuật số sẽ chiếm 30% GDP củaViệt Nam, một mụctiêu đầy tham vọng khinềnkinhtế - kỹ thuật số hiện nay chỉ chiếm8,2%GDP.
Nền kinh tế -kỹ thuật sốcònđược thúcđẩybởi dân số trẻ và sẵnsàng tiếp cận công nghệ mới.Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia có số lượng điện thoại thông minh cao nhất, với 63,1 triệuđiệnthoại thông minh đang được sử dụng,vớihơn70%dân số tiếpcậnvới internet.Với phần lớn dân số Việt Nam là người trẻ và trong độ tuổi lao động, đây sẽ là những người tiêu dùng hiểubiết vềcông nghệ cũng
232 SỐ8-Tháng 4/2022
QUẢN TRỊ - QUẢN LÝ
sẽ dễ dàng tiếp nhận chuyểnđổi sang các dịch vụ trực tuyến.
Sự bùng phát của đại dịch Covid-19 đã đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi sốkhi cácbiệnphápgiãn cáchxã hội, cách ly phòng dịch đã hình thànhnên những thói quen tiêu dùng mới. Điểmmấu chốt của làn sóng nàylà đã thúc đẩy mọi người truy cậptrực tuyến để tìm kiếm các lựa chọn thay thế, dẫn đến thói quen mới, ưu tiên các dịch vụ trực tuyến. Một khi hành vi của người tiêu dùng chuyển thànhthói quen, hành vi đó sẽ bám rễ, ngay cả khi các hạn chếđược dỡ bỏ, người tiêu dùng vẫncó thể tiếp tục sử dụng các dịch vụ trực tuyến cho các nhu cầu hàng ngàycủamình.
Với 3 độnglực thúc đẩy như trên, mặc dùbịảnh hưởng nặng nề do dịch bệnh nhưng kinh tế số ở Việt Nam năm 2021 vẫn đạt 21 tỷ USD, tăng31%
so với năm 2020. Theo dự báo của Google, Temasek và Bain & Company (2021), đến năm 2025, nền kinh tế số của Việt Nam sẽ đạt 57 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt 29%
(Hình 1).
Hình 1: Dự báo giá trị nền kinh tế số ở Việt Nam đến năm 2025
Kinh tế số, chuyển đổi số là xu hướngtất yếu củaViệtNam và nhiều quốcgia trên thế giớitrong bối cảnh hiện nay, nhưng để phát triển được nền kinh tế số, Việt Nam phải vượtqua một sốthách thức, trong đó có thách thức về nguồn nhân lực.
Kinhtế số phát triển đòi hỏi phải có nguồn nhân lực phát triển tương ứng, phải có nguồn nhânlựcsố để
triểnkhai, tổ chứcthựchiện vàvận hànhnền kinh tế mộtcách hiệu quả. Kinh tế số phát triển sẽ dẫn đến những thayđổimạnhmẽ về laođộng, quátrình chuyển đổi số sẽvừa làm mất việc làm nhưng cũng sẽ tạo ra việc làm mới. Các chuyên gia của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) dựbáo, đến năm2025 máy móc và con người sẽ có thời gian làm việc tương đương, máy móc sẽ thay thế vị trí của con ngườikhiến cho 85 triệu việc làm có thểbịmất đi.
Nhưngbên cạnh đólại có nhữngviệclàmmớiđược tạo ra trong những ngành cần sự bổ trợ tương hỗ giữa công nghệ hiện đại và lao động có tay nghề.
Kinh tếsố sẽ làm thay đổi lớn về cơ cấu laođộng và thị trườnglao động. Sự phát triển của khoa học công nghệ sẽ gâyra sự bất ổn thị trường lao động, làm giatăngnỗi lo mất việc do tự động hóa và Việt Namcùng các nước trongkhu vực có thểmất đi lợi thế so sánh dựa trên chiphílao độngthấp. Kinhtế số mang lại những cơ hội phát triển lớn, nhưng người lao động cần phải được chuẩn bị những kỹ năng và năng lực phù hợp với nhu cầu công việc trong tương lai. Lực lượng lao động ứng phó và
thích nghi với quá trình chuyển đổi số như thế nào là một câu trả lời không dễ dàng.
Đã có không ít lo ngại về việc chuyển đổi số tạo ra biến động trong thị trường lao động, đặc biệt ở những quốc gia có năng suất lao độngthấp và chủ yếu dựa vàogia công, lắp ráp như Việt Nam. Rõ ràng, việc hiểu rõ thực trạng nguồn nhân lực để chuẩn bị tốt nguồn nhân lực đáp ứng cho sự phát triển kinh tế số ởViệt Nam là rát cânthiết.
2. Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
Theo báo cáo của Tổng cục Thông kê, năm 2021, quy mô dân sô' trung bình cả nước đạt 98,51 triệu người.Lực lượngngười lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước khoảng 50,5 triệu người (chiếm tỷ lệ gần 51,26%so vối tổng dân số). Tỷ lệ tham gia lực lượnglao động năm 2021 là 67,7%. Như vậy, nếu xétvề dân số, chúng ta đứng thứ 15 trên thế giới và xét về số lượng lực lượng lao động, Việt Nam đứng thứ 11 trên thế giới và đứng thứ 2 trong khu vực Đông NamÁ(sau Indonesia).
SỐ8-Tháng 4/2022 233
Theo tổng điều tra dân số năm 2019, tỷ lệ dân số từ 15 - 64 tuổi ở Việt Nam là 67,8%, trong đó khoảng 50% dưới 34 tuổi. Điều này rất thuận lợi cho việc tiếp thu khoa học, kỹ thuật và linh hoạt trongchuyểnđổi nghề nghiệp. Vớitỷ lệ dânsônhư vậy, ViệtNam đang trong thời kỳ dân số vàng, khi mà dân số trong độ tuổi lao động gấp đôi dân số trongđộ tuổi phụ thuộc. Dự báo đếnkhoảng2040, Việt Nam sẽ kếtthúc thời kỳ cơ cấu dân số vàng.
Chấtlượngnguồn nhânlực ở ViệtNamcũngcó sự cải thiện. Theo Ngân hàngThếgiới, chỉ số vốn nhânlực (HCI) của Việt Namđã tăng từ 0,66 lên 0,69 trong 10 năm 2010 - 2020. Chỉsốvốn nhân lực củaViệtNam tiếp tục cao hơn mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập mặc
dù mức chi tiêu công choytế,giáodục và bảo trợ xã hội tháp hơn. Việt Nam là một trong những nước ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương có điểm caonhát về chỉ số vốn nhân lực. Ngoài ra, theo Báo cáo Phát triển Con người toàn cầu năm 2020 của Chương trình Phát triển Liên hiệp quôc (UNDP, 2020), chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2019 của Việt Nam là 0,704, xếp vị trí 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Từ năm 1990 - 2019, giá trị HDI của Việt Nam đãtăng hơn 48%, từ 0,475 lên 0,704. Chỉ sốHDI của ViệtNam năm 2019là 0,704, cao hơn mức trung bình0,689củacácquốc gia đang phát triển và dưới mức trung
bình 0,753 của nhóm Phát triển con người cao và mứctrungbình0,747chocác quốc giaởĐôngÁvà Thái Bình Dương. Theo thống kê của Tổng cục Thốngkê,tỷ lệ laođộng qua đào tạoởViệt Nam từ 40%năm 2010 lên 65% năm 2020, tỷ lệlao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc đã qua đào tạo liên tục tăng lên qua các năm, từ 15,4% vào năm 2011 đã tănglên 24,1% vào năm 2020. Như vậy, nhânlực chấtlượng cao của Việt Nam đã không ngừng tăng lên, trongđó một số ngành đạt trình độ khu vực và quốc tế, như:y tế,cơ khí, công nghệ, xây dựng.
Mặc dù chấtlượng nguồn nhânlựcđã có sự cải thiện, nhưng đểđáp ứng chosựphát triển nềnkinh
tế số, nguồn nhânlựccủaViệt Namhiện vẫn phải đối mặt với khá nhiều thách thức.
Một là, trĩnh độnguồn nhân lực còn thấp, chưa đápứngđượcyêu cầu của cảicách kinh tế nói chung và chuyển đổi sô'nói riêng.
Mặcdùtỷlệ laođộngđãqua đàotạo tănglên, nhưng tốc độ tăng rất chậm, từ năm 2011, tỷ lệ này là 15,4% thìđến năm 2020, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo mới chỉ đạt đến 24,1%, với tốc độ tăng bình quân trong giai đoạn chỉ tầm 5%/năm (Bảng 1). Trong khiđó, nếuso sánh với các quôc gia ngay trongkhuvực, thì tỷ lệ nàyở Indonesia là 42%, ở Maylaisia con số này lên đến 66,8%
(UNDP, 2020).
Bảng 1. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo phân theo thànhthị, nông thôn(%)
Năm Tỳ lệ chung Thành thị Nông thôn
2011 15,4 30,9 9,0
2012 16,6 31,7 10,1
2013 17,9 33,7 11,2
2014 18,2 34,3 11,2
2015 19,9 36,3 12,6
2016 20,6 37,2 12,8
2017 21,4 37,9 13,7
2018 22,0 37,3 14,7
2019 22,8 39,0 14,9
2020 24,1 39,7 16,3
Nguồn: Tổng cục Thống kê Theo đánhgiá củacác tổchức quốc tế, hầu hết chỉ tiêuvề nhân lực của ViệtNam đều tháp. Báo cáocủa Diễn đàn KinhtếThế giới(WEF)cho biết, ViệtNam thuộc nhómcác quốc gia chưa sấn sàng cho cuộc CMCN 4.0. về chỉ số nguồn nhân lực, Việt Nam xếp thứ 70/100. về chỉ số lao động có chuyênmôn cao, Việt Namxếp hạng 81/100. Chỉ số chất lượng đào tạo nghề, Việt Nam được xếp hạng 80/100 quốc gia. Nếu so sánh với các nước ASEAN, gần như tấtcả cácchỉsố của Việt Nam chỉ vượthơn đượcnướcCampuchia (Hình 2).
Như vậy, trình độ lao động của ViệtNam mới chỉgần tương đương với Indonesia, nhưng thấp hơn
234 SỐ 8 - Tháng 4/2022
QUẢN TRỊ-QUẢN LÝ
Hình 2: Thứ hạng đánh giá nguồn nhân lực của Việt Nam và một số nước ASEAN
Production Report 2018
hầu hết các nước và lãnh thổkhác, như:Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Trung Quốc, Malaysia, Hồng Kông, Thái Lan, Philippines..., dẫn đến một loạt các yếu kém khác như trình độ vận dụng khoahọc kỹ thuật kém, năng suất lao động thấp, giá thànhsản phẩm cao và đương nhiên dẫn đếnsức cạnhtranh củanền kinhtế nước tacòn thấp vàdẫnđến khó khănrất lớn cho sựpháttriển kinh tế số củaViệt Nam trong tương lai.
Hailà, cơ cấu lao động chưahợplý, cả về trình độ và về phânbô'theokhuvực.
Xét về cơ cấu, có sự bất hợplý trong cơ cấutrình độ của lực lượnglao động nước ta: laođộng qua đào tạo đạihọc và sau đại học chiếm tỷ lệ lớn nhất và gia tăng nhanh chóng. Sự gia tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo thời gian qua chiếm nguyên nhânphần nhiềulà do tăng laođộngcó
trình độ đại học trở lên.
Năm 2020,laođộngcótrình độ cao đẳngvà đại học trở lên chiếm quá nửa số lao động chất lượng cao (62,08%) và riêng đại học trở lênlà46,25%, trong khi ttình độ trung cấp nghề chỉ đạt 18,33% (Bảng 2). Điều nàydẫnđếnmột hiện tượng
đó là nước tathiếu trầm trọng đội ngũ laođộngchuyên môn kỹ thuật có trình độcao đẳng và trung cấp, nhưng lại vẫn đang thừa một lượnglớn lao động trình độ cao (từ đại học trở lên). Điều này phản ánh mứcđộ bất hợp lý, gây lãng phí lớn và phi hiệu quả của thực trạng
"thừa thầy thiếuthợ "và sự mất cân đôi về cơ cấu lao động qua đào tạo giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học hiện nay.
Phânbố nguồn lao động chất lượng cao, đã qua đào tạo, còn có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn (Bảng 1). Mặc dùkhoảng cách có giảm sovớithời gian trước,nhưng năm 2020, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có việc làm tại thành thị là 39,7%, vẫngâp2,43 lần sovới tại khu vựcnông thôn(vớitỷ lệ 16,3%).
Năm 2010,khoảng cách này là 3,6 lần.
vềlao động chất lượng cao theo vùng,trong giai đoạn 2011 - 2020, tỷ lệlao động chấtlượngcao xếp thấp nhát là vùngđồng bằng sông Cửu Long, tiếp đến là Tây Nguyên, Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung. Đông Nam bộ, đồng bằngsông Hồng là vùng dẫnđầu cả nướcvề tỷ lệ lao động chất lượng cao. Một điểm đáng chú ý làđồng bằng sông cửu Long là vựa lúa lớn nhấtcảnước nhưng lại cótỷ lệlao động đã qua đào tạo thấp nhát cả nước, so với tỷ lệ chung cả nước, chênh lệch giữa dồng bằng sông cửu Long với cả nước năm 2011 là 1,83 lần; đến năm2020, khoảng cách này được thu hẹpchútít, nhưng vẫn là
1,61 lần(Bảng3).
Bảng 2. Tỷ lệ laođộng đã quađào tạo phân theo trình độ chuyênmôn kỹ thuật (%)
Năm 2016 2017 2018 2019 2020
Trinh độ sơ cấp 3,3 3,5 3,6 3,7 4,7
Trinh độ trung cấp 5,4 5,3 5,2 4,7 4,4
Cao đẳng 3 3,3 3,7 3,8 3,8
Đại học trở lên 8,7 9,5 9,5 10,6 11,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê
SỐ 8 - Tháng 4/2022 235
Bảng3.Tỷ lệlaođộng đã quađào ỉạo phân theo vùng kinh tế (%)
Vùng 2011
2017
2018 20192020
Đồng bằng sông Hồng 21,1 29,7 29,6 32,4 32,6
Trung du và miền núi phía Bắc 13,6 18,1 18,4 18,2 20,5 Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung 14,4 20,5 21,3 21,5 22,7
Tây Nguyên 11,4 13,5 14,2 14,3 16,9
Đông Nam Bộ 22,5 27,5 28,0 28,1 29,5
Đồng bằng sông Cửu Long 7,8 12,9 13,4 13,3 14,9
Cả
nước14,3
21,6 22,0 22,824,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê Ba là, do đa số lao động của Việt Namlà lao
động phổ thông, lao động chưa qua đào tạo, nên dẫn đến nguy cơlớn về việc dư thừa lao động, đặt ra vânđề đào tạo lại chocác lao động dư thừanày.
Kết quả của một nghiên cứu do ILOcôngbô mới đây trong 2 thậpkỷ tới, khoảng 56% số người lao độngtại 5 quốc gia Đông Nam Á, trongđó có Việt Nam,có nguy cơ mất việc vìrobot,đặc biệt làtrong ngành May mặc. Hay trong báo cáocủa Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB, 2021), sự phát triểncủa kinh tê sôsẽ làm mất đi một sốlượng lớncôngviệc, vídụ, thay thế tới 1/3 lực lượng laođộng chế biến nông sản, thaythế26% số lao động trong ngành LogisticsởViệt Nam. Người lao động sẽ mấtviệc nếu thiếu các kỹ năngcần thiết đểchuyển sang làm công việc mớinếukhông có sự đầu tư đầy đủ và kịp thời cho việc phát triểnkỹ năng. Khi đó, Việt Nam có thể sẽ phải chịu sức ép khá lớn về vấn đề giải quyếtviệc làm và đối mặt với sự gia tăng tỷ lệthất nghiệp hoặc thiếu việc làmtrong tương lai.
3. Giải phát phát triển nguồn nhânlực trong bốì cảnhnềnkinh tếsô'tại Việt Namthờigian tới
Để thực sựnắm bắt đượccơhội pháttriển kinh tế số, từ đó giúp đất nước có được sự tăngtrưởng nhanh, bền vững, nângcaođời sông của người dân, cầnphải tháogỡ nhữngrào cản,trong đó râ't quan trọng là chuẩn bị nguồn nhân lực đápứng cho sự phát triển của nền kinh tế sô'thời gian tới. Muôn vậy, cần thựchiệnđồng bộ những giảipháp sau:
Thứ nhất, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định sô' 176/QĐ-TTg, ngày 5/2/2021, ban hành Chương trình hỗ trợ pháttriển thị trường lao động đến năm 2030. Theo đó, đặt mục tiêu chỉ sô' lao động cókiến thức chuyênmôn trong chỉ sô' đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc nhóm 60 nước đứng đầu vào năm2025 và 55 nước đứng đầu vào năm 2030; tỷ lệ lao động có các kỹ năng công nghệ thôngtinđạt 90% vào năm2030. Để thựchiện được điều này và cũng là nâng cao châ'tlượng nguồn nhân lực Việt Nam, cần xây dựng quy hoạch, kê' hoạch phát triển giáo dục - đào tạo, xác định đúng đắn chiến lược phát triển nguồnnhân lực. Đặcbiệt, để chuẩn bịcho chuyển đổi số, cầnchủ độngtrong việcđàotạonguồn nhân lực cácngành, lĩnhvực ưu tiên đã đượcxácđịnh tại “ChươngtrìnhChuyển đổi sô' quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.Nâng cao châ'tlượngdự báo ngắn hạn, trung hạn và dài hạnvề nhu cầu nhân lực làm cơsở để điều tiếtvà đào tạo,bồidưỡng.
Làm tốtcôngtác dự báo nhu cầu lao động, xây dựng và cập nhật dữ liệu mở về lao động có kỹ năngnghề theotừng lĩnh vực, ngànhnghề, trình độ đào tạo, nhâ't là những ngành nghề, kỹnăng mới và cậpnhậtdữ liệu theo định kỳ;tăng cường ứngdụng công nghệ thông tin trong việc kết nốicung - cầu lao động để nâng cao hiệu quảđào tạo và sửdụng laođộng.
Đẩymạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ
23Ó SÔ'8-Tháng 4/2022
QUÁN TRỊ -QUẢN LÝ
biến nhằm nâng cao nhận thức của các cơ quan, doanhnghiệp và người dân về vịtrí chiến lược và vai trò củacông tác đào tạo phát triểnnguồn nhân lực và thịtrường lao động, nâng cao năng suấtlao động,chât lượng, hiệu quả sản xuất.
Thứ hai, các cơ sở giáo dục cần thường xuyên rà soát lại chương trình đào tạo ở các trường;tăng cường thời gianhọcthựchành,giảm thời gian học lýthuyết; gắn quá trình đào tạo vớihoạtđộng thực tập, tham quan, bắt tay vào công việc ở từng chuyên ngành đào tạo; đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, liên doanh, liên kết giữa các trường,các chuyên ngành đào tạo với nhau, nhât là với các doanh nghiệp, nhà sản xuất, đầu tư, công ty;các cơ sỏ giáo dục cần phát triển hơn nữa vào các ngành nghề chấtlượngcao: như lĩnh vực kỹ thuật số, côngnghệthông tin, năng lượng, vậtliệu mới, công nghệ sinh học,... để giúp người lao động có thể làm chủ khi cuộc cách mạng số hóa bùng nổ như hiện nay.
Đặc biệt, cầntậptrung đẩy mạng côngtácđào tạo nghề.Như đã phân tích ở trên, ởViệt Nam đang có tình trạng mất cân đối lớn khi thiếu trầm trọng lao động có chuyên môn kỹ thuật. Nguyên nhân chính ở đây là do nhận thức xã hội, thích làm thầy hơn làm thợ.Vì vậy,cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, làm thay đổi căn bảnnhậnthứccủa xãhội về giáo dục nghề nghiệp. Ngay từ trường phổ thông, cần có sựhướng nghiệptốt nhằm nângcao nhận thức về nhânlực có kỹ năng nghề để tạo sự đồng thuận của toàn xã hội và đồng hành của doanh nghiệp. Các cơ sở đào tạo nghề cũng chủ động thay đổi phươngpháp đào tạotruyền thống từ
“dạy chay, học chay” đến đẩy mạnh hoạt động thực hành, ứngdụngcông nghệthông tin,công nghệ số vào hoạt động giảng dạy, tạo sự hứng thú chongười học vàtạo cơhội để người học tiếp cận với những tiếnbộkhoahọc kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Các nhà trường cũng cần tích cực chuyển đổi mô hình
đàotạo theohướng chủ động nắm bắt, đón đầu xu thế và yêu cầucủa thị trường lao động; liên kết đào tạo với các cơ sởđào tạo, doanh nghiệp có uy tín trong và ngoài nước; đồng thời nâng cao năng lực và chấtlượngcủa đội ngũ giáoviên,cán bộ quảnlý thông qua hoạt động đào tạo, tự đào tạo và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn.
Các cơ sở đào tạo đại học và đào tạo nghề nghiệp cần đẩy mạnh hợp tác liên doanh, liên kết với cá cơ sở đào tạotrong khu vực và quốc tế để vừa thu hút được các nguồn lực nước ngoài (vốn, công nghệ, phươngpháp giảng dạy,...) đểphát triển nguồn nhânlực trong nước, vừatừngbước tham gia vào sự phân công lao động quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tiết kiệm chi phí đào tạo.
về phía các doanh nghiệp, do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, sẽ có những ngành nghề phảicậpnhậtlạikiến thức trong một thời gian ngắn, trong khi người lao động không thể quaytrở lại trường để học, vì vậy đòi hỏicấc doanh nghiệp cũng phải tựtổ chức cáchoạt động giảng dạy, cập nhật kiến thức ngay tại đơn vị. Sự tham gia của doanh nghiệp với vai trò của người sử dụng lao động trong đào tạo không chỉ góp phần giảm bớt gánh nặngcho Nhà nước về đầu tư cơ sở vật chát, mà còn giúp địnhhướng, đào tạo nhữnglao động có kỹ năng phùhợp với nhucầuthị trường, nhất làđáp ứng nhữngyêu cầu về thay đổi trongsản xuất của công nghiệp4.0.
Người đứng đầu trong doanh nghiệp cần thay đổi nhận thức về íchlợi có đượctừ liên kết đàotạo vớicáccơsởđàotạo,cungcấp nhu cầu vềnăng lực của lao động để làm cơsở xác định chuẩn đầu ra cho đào tạo cũng khiến kết quả đào tạo đi đúng hướng, đáp ứng đúng nhu cầu của doanh nghiệp, hạn chế việc phải đào tạo lại lao động. Ngoài ra, cần tăng cường hợp tác 3 bên giữa nhà nước, nhà trườngvàdoanh nghiệp■
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. ADB. (2021). Reaping the benefits of industry 4.0 through skills development in high-growth industries in Southeast Asia - Insights from Cambodia, Indonesia, the Philippines and Vietnam.
SỐ 8 - Tháng 4/2022 237
2. ASEAN Secretariat. (2021). Human Resources Development Readiness in ASEAN - Vietnam Country Report.
Jakarta, Indonesia: ASEAN Secretariat.
3. Google, Temasek and Bain & Company. (2021). e-Conomy SEA 2021 - Roaring 20s: The SEA Digital Decade.
4. Tổng cục Thông kê (2021), Niên giám thông kê 2020, NXB. Thống kê.
5. UNDP. (2020). Human Development Report.
6. WEF. (2018). Readiness for the Future of Production Report 2018.
7. WEF. (2020). The Future of Jobs Report 2020.
Ngàynhậnbài: 13/3/2022
Ngàyphản biện đánhgiá và sửa chữa: 27/3/2022 Ngày chấpnhậnđăng bài: 17/4/2022
Thông tin tác giả:
ThS. NINH THỊ HOÀNG LAN TrườngĐại học Thương mại
SOLUTIONS TO DEVELOP HUMAN RESOURCES FOR THE DIGITAL ECONOMIC DEVELOPMENT
IN VIETNAM
• Master. NINH THI HOANG LAN Thuongmai University
ABSTRACT:
Along with the development of the Fourth Industrial Revolution in recent years, the digital transformation is accelerating quickly in almost all countries around the world, including Vietnam.
The digitaleconomyoffers greatdevelopmentopportunities, but workers need to be prepared with the right skills and competencies for future job requirements. This paper analyzes the current situation of humanresources in Vietnam,and pointsoutthechallengesfacing Vietnamese human resources during the developmentof the digital economy. Based on the paper’s findings, some solutions are proposed to develop human resources for the digital economic development in Vietnam in the coming time.
Keywords: humanresources, digitaleconomy.
238 So 8-Tháng 4/2022