VẤN ĐỀ HÔM NAY
QUAN ĐIÉM CỦA OANG CỘNG SẤN VIỆT NAM VỀ CÔNG ĨÁC DÂN VẬN TRONG THỜI KỲ ĐÓI MÓI ĐÁT Nước
Phan
Thị Thanh HUting
Trường Đại học Bách Khoa
Đại học Quốc gia thành phó Hồ ChíMinh Email: thanhhuong92187@gmaiL com
Tóm tắt: Trải qua các kỳ đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vận dụng, quán triệt sâu sắc tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong từng đại hội, Đảng ta đã đề ra các chủ trương tăng cường công tác dân vận nhằm phát huy khối đại đoàn kết toàn dân trong xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Qua 35 năm đổi mới, Đảng ta đã gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng và cũng gặp không ít khó khăn trong công tác dân vận. Từ thực tiễn đó, đòi hỏi chúng ta phải đế ra nhiều giải pháp để không ngừng nâng cao vai trò của công tác dân vận trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ khóa: Dàn vận; Đảng Cộng sản Việt Nam; đổi mới.
Nhận bài: 20/05/2022; Phản biện: 25/05/2022; Duyêt đăng: 28/O5/2Ũ22.
1. Quan điểm về công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1986 đến nay
Theo Chủ tịch Hổ Chí Minh: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành nhũng công việc nên làm, những công việc chính phủ và đoàn thể (Đảng) đã giao cho”. Vai trò của nhân dân là vô cùng quan trọng, không thể thiếu đối với sự vận động và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc ở mọi giai đoạn lịch sử.
Công tác dân vận là một trong nhũng phương pháp quan trọng để tập hợp lực lượng, xây dụng khối đại đoàn kết dân tộc, xây dụng đất nước. Qua tùng đại hội, Đảng ta đã vận dụng tưtưởng dân vận của Chủ tịch Hỏ Chí Minh và đề ra nhiều chủ trương nhằm phát huy vai trò của công tác dân vận, phát huy năng lực của mọi người dân.
Trong Đại hội đổi mới đất nước - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng đã khẳng định: Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Đại hội này, Đảng ta xác định ba mục tiêu mà nước ta hướng đến là: dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh.
Đồng thời, Đảng thực hiện tốt quan điểm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, chú trọng vai trò của quần chúng nhân dân. Đến Đại hội VII (1991), qua thực tiễn những năm đầu chuyển sang cơ chế thị trường, Đảng ta đã bổ sung thêm mục tiêu công bằng: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đảng đã nhất trí thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và rút ra 5 bài học, trong đó có 3 bài học cẩn quan tâm thực hiện:
Thứ nhất, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Thứ hai, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Thứba, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Từ đó, Đảng và Nhà nước ta phải không ngừng củng cố, tuyên truyền, vận động nhân dân vững bước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tiếp theo, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng đã tổng kết 10 năm đổi mới và rút ra 6 bài học, trong đó có việc “mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc”, khẳng định sức mạnh của nhân dân trong mục tiêu xây dựng đất nước “dân giàu, nước mạnh, xã hôi công bằng, văn minh”. Mở rộng công tác dân vận, liên tục đổi mới và thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” để vận động nhân dân tham gia vào công việc chung của đất nước.
Năm 1999, nhân kỷ niệm 50 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Dân vận”, theo đề nghị của Ban Dân vận Trung ương, Bộ Chính trị khóa VIII đã đổng ỷ lấy ngày 15/10/1930 là ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng và quyết định chọn ngày 15/10 hằng năm
\à“Ngày Dân vận của cả nước”. Quyết định này nhằm đẩy mạnh việc học tập và thực hiện những lời dạy của Người về công tác dân vận. Đây là tiền đề quan trọng để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cùng chung tay góp sức xây dựng đất nước ngày thêm mạnh, giàu.
Bước sang thế kỷ mới, Đại hội IX (2001), sau 15 năm đổi mới, Đảng ta bổ sung một mục tiêu đặc biệt quan trọng là dân chủ: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Vấn đề dân chủ là một phát triển quan trọng về nhận thức lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội. Dân chủ là mục tiêu, động lực của đổi mới, của phát triển, của chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Đảng ta tiếp tục khẳng định chủ trương phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
14 o Giáo
chứcViệt NamVẤN ĐỀ HÔM NAY
tăng cường mối quan hệ giũa dân với Đảng, xây dựng hệ thống pháp luật tiến bộ, phù hợp để nhân dân được làm chủ, phấn đấu cho sự phát triển của đất nước. Đại hội khẳng định: vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc “là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam”. Do đó, chúng ta phải tăng cường công tác dân vận để kêu gọi mọi người dân đoàn kết thống nhất. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Vấn đề dân vận tiếp tục được Đại hội XI của Đảng quan tâm. Đại hội đưa ra quan điểm “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta”, “các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”.
Các dân tộc trong đại gia đinh Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đặc biệt, đại hội này, Đảng ta đã chuyển cụm từ “dân chủ”
lên trước cụm từ “công bằng”. Đây là một sự thay đổi đúng đắn, quan trọng và đáng ghi nhận, thể hiện sự tiến bộ của Đảng nhằm khẳng định vai trò thiết yếu của nhân dân, tạo động lực để công tác dân vận trở nên thuận lợi hơn, thành công hơn.
Thêm vào đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng nhấn mạnh: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đổng dân tộc Việt Nam”. Xuyên suốt trong các nạhị quyết của Đảng là tư tưởng khẳng định sự bình đang, đpàn kết, tương trợ giữa các dân tộc ở nước ta, chống mọi sự kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng, với những chương trình đầu tư đồng bộ và có trọng điểm, miền núi và vùng đổng bào dân tộc đã có những đổi thay mạnh mẽ, vươn lên cùng với sự phát triển chung của đất nước. Tại Nghị quyết 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hanh Trung ương “Về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, Đảng ta đã khẳng định quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ”.
Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứXII (2016), một trong nhũng nhiệm vụ quan trọng về xây dụng Đảng được đề cập trong Nghị quyết là “Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân”. Nghị quyết đưa ra ba mục tiêu rất rõ của công tác dân vận: “Tăng cuừng và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới nhằm củng cố vũng chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân;
tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Tiếp đó, Đại hội XIII (2021) của Đảng đã khẳng định: “công tác dân vận được chú trọng và tiếp tục đổi mới; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn;
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường”. Chúng ta phải “tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động, của các cấp uỷ đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận. Tăng cường đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan đảng, nhà nước và cả hệ thống chính trị”, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vũng mạnh trong tình hình mới. Đại hội cũng bổ sung, hoàn thiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Như vậy, qua từng đại hội, Đảng ta đã có sự phát triển nhận thức về công tác dân vận, tăng cường đổi mới, linh hoạt trong cách thực hiện, vận động nhân dân.
Song song đó, Đảng xem đây là chìa khóa vạn năng cho việc xây dựng khối đoàn kết tòan dân, phát triển đất nước. Qua quá trình hiện thực hóa quan điểm dân vận, Đảng ta đã thu về nhiều kết quả đáng trân trọng.
2. Một số thành tựu và hạn chế trong công tác dân vận của Đảng từ năm 1986 đến năm 2021
2.1. Thành tựu đạt được trong công tác dân vận của Đảng
Như vậy, từĐại hội VI đến Đại hội XIII, Đảng ta đã không ngừng vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận vì mục tiêu thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với dân, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng họp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập thống nhất cho Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhờ đó, ta đã đạt được những thành tựu như:
Thứ nhất, Ban Dân vận đã được hình thành, mở rộng từ Trung ương đến cấp cơ sở, tạo thành mạng lưới vững chắc “phủ sóng” đến toàn thể nhân dân. Từ thành thị đến thôn quê, từ dân tộc đa số đến dân tộc thiểu số... đểu được quan tâm, đểu được động viên, được thông tin tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Thứ hai, người dân được bàn bạc, góp ý, giám sát công việc của Nhà nuức
Nhà nước đã kịp thời cung cấp thông tin đến toàn thể nhân dân, từ việc xây dựng Hiến pháp, pháp luật đến việc xây dụng các công trình lớn, có ảnh hưởng đến dân thì dân đều được biết. Bên cạnh đó, mọi người dân đều có quyền thể hiện chính kiến cá nhân, bàn bạc, góp ý về vấn đề hệ trọng của đất nước. Song song đó, các công trình quốc gia, các công việc của cán bộ, nhân dân có quyền giám sát, nhắc nhở, phê bình. Qua mỗi thời kỳ, vai trò của người dân không ngừng được nâng cao và
Số183
(7/2022) o 15
VẤN ĐỀ HÔM NAY
ngày càng đi vào chiều sâu. Vấn đề dân là chủ và dân làm chủ được hiện thực hóa sâu rộng. Nhân dân ngày càng tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong việc đóng góp ý kiến phê bình, ủng hộ, nhằm không ngừng nâng cao đời sống, chất lượng cuộc sống của người dân.
Thứ ba, có nhiều phương tiện thông tin, tuyên truyền để đưa thông tin kịp thời đến người dân và tiếp thu những ý kiến, phản hồi từ dân. Hiện nay, người dân muốn tìm hiểu thông tin, tin tức của đất nước thì có khá nhiều kênh để theo dõi. Chẳng hạn như: truyền hình, radio, mạng xã hội Zalo, Facebook, báo giấy, báo điện tử... Từ đó, Chính phủ sẽ thuận lợi hơn trong việc vận động, tuyên truyền cho dân hiểu chủ trương của Đảng và tiếp nhận nhũng phản ánh, nguyện vọng của nhân dân một cách nhanh chóng, không làm mất nhiều thời gian, công sức của dân.
Thứ tư, phát huy hiệu quả nhiều chương trình chăm lo đời sống nhân dân, phát huy tinh thần đoàn kết trong quần chúng. Những năm gần đây, nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo được chính phủ đẩy mạnh và triển khai khá hiệu quả. Nhiều hộ gia đình đã xóa được đói, giảm được nghèo và giảm đáng kể các hộ tái nghèo.
Chính phủ đang tiến hành các biện pháp để xóa nghèo đa chiều, xóa nghèo bền vũng, hướng đến chăm lo và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Nhà nước vận động các mạnh thường quân, nhà hảo tâm cùng đoàn kết, cùng thục hiện nhiều chương trình để xây dụng nhà tình thương, chăm lo đời sống cho nhũng gia đình chính sách, những nạn nhân chất độc màu da cam, trẻ em mồ côi, ủng hộ giúp đỡ vùng lũ được tiến hành thực hiện một cách sâu rộng. Tinh thần lá lành đùm lá rách trong cả nước phát triển rất cao và tương đối rộng rãi.
Đây là động lực quan trọng để xây dựng tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái trong nhân dân.
Thứnăm, đảm bảo thục hiện công bằng với mọi người dân, không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, giới tính, tôn giáo, dân tộc thiểu số hay đa số. Hiện nay, các chính sách đề ra thì người người, nhà nhà đểu thực hiện bình đẳng như nhau, không thiên tư thiên vị.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, những tích cực mà toàn Đảng, toàn dân ta đạt được thì cũng còn tồn đọng một số vấn đề hạn chế dẫn đến kìm hãm sự phát triển về mọi mặt.
2.2. Một số hạn chế trong công tác dân vận của Đảng Thứ nhất, công tấc dân vận chua dí sâu vào thực tiễn Mặc dù Đảng và Nhà nước ta khẳng định vai trò, tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, quyết vận dụng tư tưởng của Người trong sự nghiệp xây dụng và phát triển đất nước nhưng điều đó vẫn còn nằm trong khuôn khổ lý luận chưa đưa vào thực tiễn một cách triệt để, một cách sâu rộng, chưa phát huy được toàn bộ sức dân, tài dân.
Thứ hai, công tác dân vận chua được chú trọng đúng mức
Chúng ta thấy rằng, vấn đề gì được chú trọng, được đầu tư kỹ lưỡng thì kết quả sẽ cao và ngược lại. Công
tác dân vận cũng không nằm ngoài quy luật đó. Có thể nói, hiện nay, công tác vận động, tuyên truyền cho người dân biết, nắm rõ các đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tác tập hợp lực lượng còn hạn chế. Một số hoạt động vận động nhân dân còn thiếu sự đầu tư, thiếu đồng bộ, thiếu khoa học, thiếu nhiệt huyết, chưa có tính thuyết phục, chưa làm cho dân hiểu, dân tin.
Thứ ba, hạn chế về công tác cán bộ của Đảng Một số cán bộ chưa đủ khả năng nói cho dân nghe, làm cho dân hiểu, kêu gọi để dân đi theo và khi cần dân sẽ cống hiến hết mình. Vấn đề “nêu gương” ở cán bộ chưa được thực hiện rộng khắp. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rỗ “một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”. Do đó, cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, tiên phong trong các công việc, để nêu gương cho quần chúng nhân dân cùng thực hiện.
Đồng thời, vấn đề tham ô, lãng phí ở một số cán bộ, đảng viên vẫn còn hiện diện, quyền lợi của người dân bị xâm phạm. Từ đó làm hạn chế tinh thần xây dựng của người dân đối với công việc của đất nước.
Thứtư, một bộ phận người dân chưa làm tròn trách nhiệm đối với Tổ quốc
Hiện nay, một bộ phận nhỏ người dân có tư tưởng không màng đến công việc của đất nước. Họ không xem tin tức thời sự, không quan tâm đến tình hình đất nước.
Đồng thời, một sô' người chưa làm tròn trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc, thiếu tinh thần đóng góp, thiếu động lực đấu tranh để chống cái xấu, xây dựng và phát triển cái tốt, chưa tham gia sâu rộng vào các đoàn thể, công tác xây dựng đoàn thể.
Từ nhũng hạn chế trên đã dẫn đến nhiều hệ quả, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nước nhà, chúng ta cần đề ra những giải pháp phù hợp góp phần vào sự nghiệp xây dụng, phát triển đất nước.
3. Giải pháp để phát huy vai trò công tác dân vận của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước Việt Nam cần phải kiểm tra, rà soát quá trình hoạt động, kết quả hoạt động của công tác dân vận và có sựđánh giá xác đáng, cụ thể về công tác này. Đây là tiền đề quan trọng để chúng ta đưa ra giải pháp phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm để không ngùng phát huy vai trò, sức mạnh của công tác dân vận trong thời đại mới.
Thứ hai, cần tạo ra môi trường gẩn gũi, thân thiện giữa Đảng và dân. cần phải có những buổi họp mặt của cán bộ cấp Trung ương và nhân dân, tạo cơ hội để dán tự tin nói lên tiếng nói, nguyện vọng của mình, thẳng thắn phê bình cán bộ mắc khuyết điểm. Đặc biệt là đối với cán bộ cấp cơ sở ở địa phương tránh tình trạng chính sách, đường lối của Đảng đưa ra nhưng khi đến địa phương thì không còn nguyên giá trị của nó.
Chúng ta phải xây dựng các chương trình gắn kết giữa
16
o Giáo
chứcViệt
NamVẤN ĐỀ HÔM NAY
Đảng, cán bộ với dân, nắm vững phương châm: gần dân, trọng dân, tin dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân và biến điều đó thành hành động thực tiễn. Chúng ta phải thực hiện tốt công tác dân vận để đem tài dân, sức dân mà phục vụ cho dân, tất cả vì lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy dân làm gốc.
Thứ ba, Đảng và Nhà nước ta nên thiết kế nhiều chương trình thi đua cống hiến, thi đua sáng tạo, phát triển trên mọi lĩnh vực, để người người, nhà nhà cùng thi đua sản xuất, thi đua lao động, xây dựng tập thể vững mạnh, trong sạch. Đặc biệt, các chương trình thi đua yêu nước này phải đảm bảo công bằng giữa cán bộ và người dân lao động bình thường, phải khách quan, công tâm không thiên vị. Cơ cấu khen thưởng phải có đủ các thành phần lao động: có nông dân, công nhân, trí thức, nhân viên, người lao động... chúng ta phải tạo động lực để mọi người đoàn kết, cùng phấn đấu làm việc, cùng lao động sản xuất góp phần xây dụng và phát triển đất nước vũng mạnh hơn. Đồng thời, ta cần tổ chức các hoạt động thi đua thực hiện công tác dân vận đối với cán bộ, đảng viên. Đây là môi trường để cán bộ học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, đưa công tác này đi sâu, thâm nhập vào từng “ngõ ngách”, từng khía cạnh cuộc sống.
Thứtư, cán bộ đảng viên làm công tác dân vận cần phải thường xuyên chủ động tìm đến dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của dân, vận động dân, xây dựng trong dân những nền tảng tư tưởng đúng để dân tin tưởng đí theo Đảng, ủng hộ Đảng và góp súc bảo vệ chế độ, bảo vệ nền độc lập tự chủ của dân tộc. Cán bộ phải đi vào quần chúng nhân dân. Tất cả mọi việc phải để cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Thứ năm, Đảng và Nhà nước Việt Nam cần xây dựng chính sách đối với cán bộ làm công tác dân vận ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số...
Đây là những khu vực “nhạy cảm”, cần được quan tâm đúng mức. Cán bộ dân vận ở nơi đây cần được đào tạo, huấn luyện bài bản, chuyên nghiệp, vững về ỷ chí, chắc về chuyên môn để tuyên truyền, vận động nhân dân làm đúng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, tránh bị thế lực xấu kích động. Đồng thời, chúng ta phải có chính sách ưu đãi đối với các cán bộ dân vận ở đây, để
họ yên tâm công tác, cống hiến hết mình cho đất nước.
Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều giải pháp nhằm không ngừng phát huy vai trò trọng yếu của công tác dân vận, đưa công tác này đi sâu vào quần chúng nhân dân. Qua công tác dân vận, chúng ta phải đem tài dân, sức dân mà phục vụ cho dân, xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều này góp phần quan trọng cho sự nghiệp xây dựng đất nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và sớm thành công trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Kết luận
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, từ Đại hội VI đến Đại hội XIII, Đảng ta luôn khẳng định “lấy dân làm gốc”, đề ra phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đảng ta luôn khẳng định chỗ dựa vững chắc là ở nơi dân. Đó là sự kế thừa và phát triển tưtưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận. Ngày nay, chúng ta đã thực hiện khá tốt công tác dân vận nhưng vẫn còn tồn đọng một số khó khăn, hạn chế. Từ đó, Đảng ta đề ra nhiều giải pháp để phát huy vai trò công tác dân vận trong tình hình mới, trong bối cảnh mới. □
Tài liệu
thamkhảo[1] . Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011), NXB. Chính trị quốc gia.
[2] . Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứXI, Hà Nội: NXB. Chính trị quốc gia.
[3] . Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Đại hội Đáng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI). NXB. Chính trị quốc gia.
[4] . Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứXII, Hà Nội: NXB. Chính trị quốc gia.
[5] . Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đụi biểu toàn quốc lần thứXIII, tập 2, Hà Nội, NXB.
Chính trị quốc gia.
[6] . HỒ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Hà Nội, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
Perspectives of the Communist Party of Vietnam on mass mobilization hl the period of national renovation
Phan Th! Thanh Huong
Ho Chi Minh City
UniversityofTechnology
EmaiHhanhhuong92
[email protected]Abstract: Over the course of congresses, the Communist Party of Vietnam has always applied and thoroughly grasped the ideology of mass mobilization of President Ho Chi Minh. In each congress, our Party set forth policies to strengthen mass mobilization work in order to promote the great unity of the whole people for national construction, defense and development. Through 35 years of renovation, our Party has achieved many important achievements and also encountered many difficulties in the work of mass mobilization. From that reality, it requires US to come up with many solutions to constantly improve the role of mass mobilization in the cause of industrialization and modernization of the country.
Keywords: Mass mobilization, Communist Party of Vietnam, renovation.
So