• Tidak ada hasil yang ditemukan

Thị trường chứng khoán Việt Nam với AEC

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "Thị trường chứng khoán Việt Nam với AEC"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

Thị trường chứng khoán Việt Nam với AEC

Nguyễn Tôn Nhân Cao Hải Yến

Ngày nhận: 24/11/2016 Ngày nhận bản sửa: 12/04/2017 Ngày duyệt đăng: 17/04/2017

Trong quá trình hội nhập, thị trường tài chính được xem là một trong những yếu tố quan trọng thu hút nguồn vốn cho nền kinh tế. Hội nhập mang lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam tiếp cận với nguồn vốn đầu tư từ các nước trong khối Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và các nền kinh tế lớn trên thế giới. Nghiên cứu này phân tích mối quan hệ liên kết giữa thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam với các quốc gia ASEAN và các thị trường lớn trên thế giới như Mỹ, Nhật, Châu Âu và Trung Quốc trong hai giai đoạn trước (2000-2006) và sau (2007- 2016) khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), bằng mô hình véc tơ hồi quy tự tương quan (VAR). Kết quả nghiên cứu cho thấy, TTCK Việt Nam bị ảnh hưởng bởi TTCK các quốc gia trong khu vực và các TTCK lớn trên thế giới nhiều hơn so với trước khi gia nhập WTO. Đặc biệt sau khi gia nhập thị trường tài chính ASEAN, TTCK Việt Nam có mối liên hệ ngày càng chặt chẽ với các nước và chịu tác động mạnh mẽ từ các TTCK khác trong khu vực.

Từ khóa: Thị trường chứng khoán, mô hình VAR, AEC, WTO.

1. Giới thiệu

iện nay, TTCK ASEAN được đánh giá là ngôi sao mới nổi của thị trường tài chính toàn cầu. Trong đó, mối liên kết giữa bảy Sở Giao dịch Chứng khoán trong khối ASEAN, gồm Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE); Sở Giao dịch

Chứng khoán Malaysia (BM);

Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX); Sở Giao dịch Chứng khoán Indonesia (IDX);

Sở Giao dịch Chứng khoán Philippines (PSE); Sở Giao dịch Chứng khoán Singapore (SGX) và Sở Giao dịch Chứng khoán Thái Lan (SET) mang tên gọi ASEAN Exchange ngày càng nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư trong khu vực và quốc tế. Hiện nay, bảy sở Giao

dịch Chứng khoán ASEAN có tổng vốn hóa thị trường xấp xỉ 2.400 tỷ USD với hơn 3.000 công ty niêm yết tại sáu quốc gia. Mối liên kết này giúp các nhà đầu tư dễ dàng tham gia vào các thị trường trong khu vực.

Hiện TTCK được phân loại thành ba nhóm: Thị trường cận biên (Frontier Market), Thị trường mới nổi (Emerging Market) và Thị trường phát triển (Developed Market). Vụ

(2)

Quản lý quỹ (UBCKNN) cho biết, Việt Nam hiện đang được xếp ở nhóm Thị trường cận biên. Tuy nhiên, căn cứ theo danh sách tái xếp hạng của S&P DJ năm 2013, Việt Nam được khuyến nghị nằm trong danh sách nâng hạng lên Thị trường mới nổi. Còn đối với các tiêu chí định lượng của MSCI (Morgan Stanley Capital International) về Thị trường mới nổi, VN hiện đang nằm trong nhóm các thị trường cận và tiến sát tới các thị trường mới nổi. Đây là tín hiệu đáng mừng để TTCK Việt Nam phấn đấu phát triển, hội nhập và tiến tới nâng hạng lên Thị trường mới nổi.

Việt Nam lần đầu tiên đã có mặt trong bộ chỉ số FTSE/ASEAN vào năm 2014. FTSE ASEAN Stars Index bao gồm 30 công ty lớn nhất về vốn hóa và tính thanh khoản của mỗi quốc gia trong ASEAN. Tính đến nay, Việt Nam tham gia bốn(4) trong số năm (5) chỉ số chính trong khu vực bao gồm: FTSE ASEAN All-Share Index; FTSE ASEAN Sector Indices; FTSE ASEAN Star Index và FTSE ASEAN All-Share Developed Index. Trong các chỉ số nói trên, chỉ số đại diện cho các cổ phiếu có vốn hóa lớn nhất và có tính thanh khoản nhất tại TTCK

Đông Nam Á là FTSE/ASEAN 40 Index, thì TTCK Việt Nam không nằm trong rổ chỉ số này.

Điều này là do các yêu cầu khắt khe trong rổ chỉ số mà hiện tại TTCK Việt Nam chưa có cổ phiếu của công ty niêm yết nào đáp ứng.

Bảng 1 cho thấy giá trị vốn hóa TTCK của sáu quốc gia trong khu vực ASEAN năm 2015.

Quy mô TTCK Việt Nam (trên cả hai sàn HOSE và HNX) tính đến tháng 12/2015 đạt khoảng 38% so với GDP (tăng 8% so với 2014 và tăng 18% so với 2013). Với tốc độ tăng trưởng này, mục tiêu tỷ lệ vốn hóa đạt 50% GDP vào năm 2020 sẽ rất khả thi khi Chính phủ đang thực hiện chủ trương cổ phần hóa một cách quyết liệt, thêm vào đó là việc tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, với các điều khoản buộc nhóm doanh nghiệp Nhà nước cạnh tranh bình đẳng với các khu vực khác (các tập đoàn, các công ty quốc doanh không còn các đặc quyền như trước, do đó việc cổ phần hóa sẽ diễn ra thuận lợi hơn). Quy mô TTCK Việt Nam vẫn còn rất hạn chế so với các quốc gia trong khu vực (chỉ bằng 1/6 của TTCK Thái Lan và 1/3 của Philippines) và

chỉ hơn Indonesia nếu tính theo tỷ lệ % trên GDP (38,9% so với 31,8% của Indonesia).

2. Tổng quan nghiên cứu Có rất ít nghiên cứu đo lường mức độ hội nhập thị trường giữa các nước phát triển và các nước thuộc khối ASEAN, đặc biệt là liên quan đến Việt Nam.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các nhà đầu tư nước ngoài đang ngày càng quan tâm đến thị trường Việt Nam. Hơn nữa, sự gia nhập WTO và AEC đã làm cho thị trường tài chính Việt Nam hội nhập nhiều với nền kinh tế thế giới và chịu ảnh hưởng bởi các thị trường phát triển.

Sau hơn 10 năm hình thành và phát triển, khối lượng giao dịch trên TTCK Việt Nam chỉ chiếm khoảng 15- 20% GDP, thấp hơn nhiều so với các thị trường phát triển khác (100- 200% GDP), (Lam L., 2010). TTCK Việt Nam đang bị ảnh hưởng mạnh bởi nhiều thị trường tài chính trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc (Phu C. N. V., 2009, Nhan N. T., 2011) Janakiramanan và Lamba (1998), Yoshida (2010) và Lim (2010) kết luận, TTCK Châu Á đều chịu ảnh hưởng bởi TTCK Mỹ. Trong khi đó, Yusof và Majid (2006) và Karim và Majid (2009) cho thấy sức ảnh hưởng của chứng khoán Nhật Bản cao hơn của Mỹ đối với khu vực ASEAN.

Áp dụng các mô hình GARCH, Liu và Pan (1997) nhận thấy rằng, thị trường Mỹ dường như có nhiều ảnh hưởng hơn so với thị trường Nhật Bản trong việc tác động đến thị trường châu Á.

Bảng 1. Vốn hóa TTCK của 06 quốc gia trong khu vực ASEAN năm 2015

Quốc gia Giá trị vốn hóa (tỷ USD) Giá trị vốn hóa/GDP (%)

Việt Nam 58,1 38,9

Philippines 172,9 65,3

Indonesia 314 31,8

Thái Lan 337 85,8

Singapore 281,4 99

Malaysia 236 71,7

Nguồn: Tính toán từ Thomson Reuters Datastream

(3)

Ping và Peijie (2010) ghi nhận rằng, tác động về lan tỏa rủi ro mạnh hơn tác động về lan tỏa giá giữa các thị trường lớn như Trung Quốc và các thị trường phát triển như Mỹ và Nhật Bản.

Đối với các nước thuộc khối ASEAN, các nghiên cứu đã thực hiện có thể kể đến như Janakiramanan và Lamba (1998); Yoshida (2010); Lim (2010); Yusof và Majid (2006);

Karim và Majid (2009); Ibrahim (2005); Ng (2002); Majid và ctg (2008); Awokuse và ctg (2009);

Karim và Karim (2012); Azman- Saini và ctg (2002); Chen và ctg (2003). Theo Janakiramanan và Lamba (1998); Ng (2002), hợp tác về tài chính trong khu vực có thể xuất phát từ sự thuận lợi về khoảng cách địa lý giữa các thị trường. Ngoài ra, Taylor và Tonks (1989) cũng nhấn mạnh mối liên kết tài chính mạnh mẽ xuất hiện ở các quốc gia nhằm nỗ lực giảm rào cản thương mại và tăng cường mối liên hệ về kinh tế với nhau. Đây cũng chính là lý do ASEAN thành lập AEC.Sử dụng kiểm định nhân quả Granger cho dữ liệu trong giai đoạn 1988-1999, Azman-Saini và ctg (2002) kết luận vai trò dẫn dắt của TTCK Singapore trong khu vực. Đồng thời, thị trường Indonesia bị ảnh hưởng từ các thị trường ASEAN khác (trừ Malaysia) nhưng lại không ảnh hưởng ngược lại gì đến các thị trường này. Chen và ctg (2003) sử dụng dữ liệu theo ngày từ 1992-2000 cho thấy, thị trường các nước thuộc khối ASEAN-5 thực sự phụ thuộc lẫn nhau cả trước và sau năm 2007.

Ibrahim (2005) kiểm định mức độ hội nhập trong thị trường này

trong khoảng 1988-2003 và cho thấy, không có đồng tích hợp (không có mối quan hệ trong dài hạn).

Theo Majid và ctg (2008), mức độ hiệu quả của các chính sách vĩ mô liên quan đến TTCK của mỗi quốc gia trong khối ASEAN phụ thuộc vào mức tương quan của thị trường đối với các thị trường còn lại của khối.

3. Mô hình và phương pháp nghiên cứu

3.1. Dữ liệu

Nghiên cứu tính toán suất sinh lợi theo ngày tại các thị trường tài chính 6 quốc gia ASEAN thông qua chỉ số chứng khoán đại diện trong khoảng thời gian từ năm 200- 2016. Suất sinh lợi được tính bằng (Indext − Indext-1)/Indext-1. Các kiểm định về tính dừng được thực hiện trước khi chạy mô hình.

3.2. Phương pháp nghiên cứu Bài viết sử dụng mô hình tự hồi quy VAR để nghiên cứu, đánh giá mối liên hệ giữa các TTCK tại sáu quốc gia ASEAN. Mô hình VAR được đánh giá là một trong những mô hình hiệu quả để xem xét mối quan hệ động của các dữ liệu chuỗi thời gian.

Mô hình VAR(p) có phương trình tổng quát như sau:

yt = c + φ1yt-1 + φ2yt-2 +...+ φpyt-p + ut

Trong đó:

yt-p giá trị của y trong p kỳ trước đó c là ma trận hằng số k×1.

φi là ma trận dữ liệu.

ut là ma trận sai số k×1.

Để có cái nhìn rõ hơn về mức độ

tương quan giữa các thị trường, nghiên cứu chia ra hai giai đoạn:

trước khi gia nhập WTO, từ năm 2000- 2006 và sau khi gia nhập WTO, từ năm 2007- 2016.

Giá trị p trong mô hình được lựa chọn dựa trên các tiêu chuẩn Akaike Information Criterion (AIC), Bayesian Information Criterion (BIC), Hannan-Quinn (HQ), Final Prediction Error (FPE). Kiểm định Granger- Causality dùng để kiểm định sự ảnh hưởng của các TTCK lớn trên thế giới đến TTCK Việt Nam.

4. Kết quả nghiên cứu

4.1. Ảnh hưởng của các TTCK lớn trên thế giới đến TTCK Việt Nam

Thuộc nhóm Thị trường cận biên, còn non trẻ, TTCK Việt Nam bị ảnh hưởng nhiều bởi các thị trường lớn trên thế giới như Mỹ, Nhật, Châu Âu và Trung Quốc. Bảng 2 dưới đây trình bày giá trị chi bình phương, kiểm định nhân quả Granger sử dụng mô hình VAR(10) giữa lợi nhuận cổ phiếu của TTCK Việt Nam (Vn-Index) và các thị trường lớn như Mỹ (S&P 500), Nhật (Nikkei 225), Châu Âu (Euro Stoxx 50) và Trung Quốc (SSE). Tính dừng của chuỗi dữ liệu đã được kiểm tra. Kết quả cho thấy, sau khi gia nhập WTO, TTCK Việt Nam bị ảnh hưởng bởi các TTCK lớn trên thế giới nhiều hơn so với trước khi gia nhập WTO. Cụ thể, trước khi gia nhập WTO, TTCK Việt Nam chỉ bị ảnh hưởng của TTCK Nhật (với mức ý nghĩa 10%). Trong khi đó, sau khi gia nhập WTO, TTCK Việt Nam

(4)

chịu ảnh hưởng của TTCK Mỹ, Nhật (đều với mức ý nghĩa 1%) và Châu Âu (mức ý nghĩa 5%).

4.2. Mối tương quan giữa Việt Nam với các nước trong khu vực

Ngoài sự tác động của các thị trường lớn trên thế giới, trong quá trình hội nhập, đặc biệt là gia nhập thị trường tài chính ASEAN, TTCK Việt Nam có mối liên hệ ngày càng chặt chẽ với các quốc gia trong khu vực.

Bảng 3 dưới đây thể hiện mối tương quan suất sinh lợi tại TTCK của sáu quốc gia trong khu vực ASEAN qua hai giai

đoạn: (1) Trước khi tham gia WTO từ 2000 đến 2006; (2) sau khi gia nhập WTO từ 2007 đến 2016. Bảng tương quan cho thấy, sau khi gia nhập WTO, mối tương quan của TTCK Việt Nam với các quốc gia trong khu vực có tăng lên nhưng vẫn rất thấp (khoảng 0,01- 0,02 trong giai đoạn 1 và khoảng 0,12- 0,21 trong giai đoạn 2) so với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ hệ số tương quan giữa TTCK của Indonesia và Singapore là 0,64 trong giai đoạn 2007- 2016. Nhìn chung, mức độ hội nhập của TTCK Việt Nam là thấp nhất trong khu vực. Các quốc gia khác như Indonesia,

Malaysia, Singapore, Thái Lan có mức độ hội nhập tốt hơn (hệ số tương quan khoảng 0,4- 0,6).

4.3. TTCK các quốc gia ASEAN trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO

Bảng 4 dưới đây trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm mô hình VAR đối với suất sinh lợi tại sáu quốc gia ASEAN giai đoạn trước khi gia nhập WTO:

2000- 2006 và sau khi gia nhập WTO: 2007- 2016 (tính dừng của các chuỗi dữ liệu đã được kiểm định, độ trễ lag=1 được chọn cho giai đoạn trước khi gia nhập WTO và lag=2 cho giai đoạn sau khi gia nhập WTO dựa trên các tiêu chuẩn AIC, BIC, HQ, FPE).

Trong giai đoạn trước khi gia nhập WTO, suất sinh lợi của VNIndex chủ yếu chịu ảnh hưởng của chính VNIndex ngày hôm trước (hệ số 0,36 với mức ý nghĩa 1%). Suất sinh lợi của VNIndex cũng chịu ảnh hưởng Bảng 2.

Kiểm định Granger, mô hình VAR (10) cho lợi nhuận cổ phiếu giữa TTCK Việt Nam với Mỹ, Nhật, Châu Âu và Trung Quốc Giai đoạn 2000- 2016 2000- 2006 2007- 2016

Mỹ 45,2*** 8,2 61,2***

Trung Quốc 11,4 9,7 6,4

Nhật 36,3*** 18* 38,1***

Châu Âu 24,5*** 15,5 20,6**

Mức ý nghĩa: *** : 1% ; ** : 5% ; * : 10%

Bảng 3. Tương quan suất sinh lợi tại TTCK của 6 quốc gia trong khu vực ASEAN qua hai giai đoạn: 2000- 2006 và 2007- 2016

Quốc gia Indonesia Malaysia Philippines Singapore Thái Lan Việt Nam Giai đoạn 2000 - 2006

Indonesia 1,0000 0,2841 0,2369 0,3435 0,3360 0,0117

Malaysia 0,2841 1,0000 0,2132 0,3718 0,3258 0,0142

Philippines 0,2369 0,2132 1,0000 0,1685 0,1832 0,0246

Singapore 0,3435 0,3718 0,1685 1,0000 0,3958 -0,0227

Thái Lan 0,3360 0,3258 0,1832 0,3958 1,0000 0,0143

Việt Nam 0,0117 0,0142 0,0246 -0,0227 0,0143 1,0000

Giai đoạn 2007 - 2016

Indonesia 1,0000 0,5695 0,4751 0,6397 0,5522 0,1564

Malaysia 0,5695 1,0000 0,4927 0,5833 0,4606 0,1403

Philippines 0,4751 0,4927 1,0000 0,4034 0,3578 0,2140

Singapore 0,6397 0,5833 0,4034 1,0000 0,5834 0,1391

Thái Lan 0,5522 0,4606 0,3578 0,5834 1,0000 0,1234

Việt Nam 0,1564 0,1403 0,2140 0,1391 0,1234 1,0000

Nguồn: Tính toán của tác giả

(5)

của suất sinh lợi ngày hôm trước của TTCK Indonesia và Malaysia nhưng hệ số nhỏ hơn (0,08 và -0,12) và mức ý nghĩa thấp hơn (5% và 10%).

Sau khi gia nhập WTO, mức độ hội nhập của TTCK Việt Nam được cải thiện, suất sinh lợi của VNIndex chịu ảnh hưởng không chỉ bởi chính VNIndex ngày hôm trước (hệ số 0,23) mà còn chịu ảnh hưởng bởi suất sinh lợi ngày hôm trước của TTCK Malaysia (hệ số 0,23), Singapore (0,19) và suất sinh lợi ngày hôm kia của Indonesia (0,15), tất cả đều có mức ý nghĩa 1%.

Trong giai đoạn 2000- 2006,

suất sinh lợi của TTCK

Indonesia, Singapore, Thái Lan không bị ảnh hưởng bởi các thị trường khác, suất sinh lợi của TTCK Malaysia chịu ảnh hưởng bởi suất sinh lợi ngày hôm trước của TTCK Singapore và Philippines. TTCK Philippines chịu tác động từ TTCK các quốc gia khác trong khối ASEAN nhiều nhất (Indonesia, Singapore, Thái Lan).

Trong giai đoạn 2007- 2016 mức độ hội nhập của các TTCK trong khu vực tăng lên, tất cả các TTCK đều chịu ảnh hưởng bởi các thị trường khác. Ví dụ, suất sinh lợi của TTCK

Indonesia chịu ảnh hưởng bởi TTCK Malaysia và Philippines, suất sinh lợi của TTCK

Malaysia chịu ảnh hưởng bởi Indonesia và Philippines…

5. Kết luận và những vấn đề đặt ra cho thị trường chứng khoán Việt Nam khi gia nhập AEC trong thời gian tới Cổ phiếu trên TTCK Việt Nam hiện vẫn chưa đáp ứng được các điều kiện để tham gia vào các chỉ số chính trong khu vực như FTSE/ASEAN 40 Index (vốn hóa trung bình hiện tại của các cổ phiếu là 8,765 tỷ USD, cổ Bảng 4.

Mô hình VAR của suất sinh lợi TTCK các quốc gia ASEAN giai đoạn 2000- 2006 và 2007- 2016 Indonesia Malaysia Philippines Singapore Thái Lan Việt Nam

Giai đoạn 2000- 2006

INDO(-1) 0,102*** 0,012 0,055* -0,023 0,056 0,081**

MALAY(-1) 0,034 0,022 0,029 -0,039 0,055 -0,119*

PHIL(-1) -0,019 -0,065*** 0,034 0,011 0,029 0,000

SING(-1) -0,007 0,072*** 0,064* -0,034 0,005 0,014

TL(-1) 0,006 0,013 0,089*** 0,035 -0,039 -0,031

VN(-1) 0,013 -0,017 0,018 -0,009 -0,045* 0,361***

Constant 0,001*** 0,000 0,000 0,000 0,001 0,001***

Adj. R-squared 0,007 0,016 0,036 -0,002 0,003 0,129

Giai đoạn 2007 - 2016

INDO(-1) 0,101*** 0,073*** 0,077** 0,021 0,094*** -0,023

INDO(-2) -0,025 0,003 0,021 -0,009 0,026 0,099***

MALAY(-1) -0,084 -0,039 -0,097* -0,073 -0,054 0,193***

MALAY(-2) -0,081 0,017 -0,067 -0,141*** -0,134** -0,103*

PHIL(-1) 0,011 -0,008 -0,002 0,028 0,054* -0,057*

PHIL(-2) 0,048 0,019 -0,023 0,026 0,019 -0,059*

SING(-1) 0,054 0,03 0,133*** 0,028 -0,048 0,166***

SING(-2) 0,061 0,015 -0,006 0,019 0,035 -0,005

TL(-1) 0,053 0,038** 0,102*** 0,002 0,010 0,049

TL(-2) -0,049 -0,003 0,005 0,023 -0,015 0,048

VN(-1) -0,008 -0,026* -0,015 -0,004 0,027 0,168***

VN(-2) 0,012 -0,004 -0,017 0,014 0,024 0,013

Constant 0,000 0,000 0,001 0,000 0,000 0,000

Adj. R-squared 0,019 0,033 0,051 0,002 0,012 0,086

Mức ý nghĩa: ***: 1%; **: 5%; *: 10%.

(6)

phiếu có vốn hóa nhỏ nhất cũng đạt gần 2,25 tỷ USD, tỷ lệ lưu hành tự do của cổ phiếu đã phát hành của công ty niêm yết “free float” trên 20%, giao dịch trong vòng 12 tháng, có điều chỉnh free float, phải đạt ít nhất 20%

tổng khối lượng cổ phiếu lưu hành). Tuy nhiên, vẫn có một số cổ phiếu triển vọng, như cổ phiếu của Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk): vốn hóa thị trường khoảng 5,8 tỷ USD và

“free float” 45% tổng khối lượng cổ phiếu lưu hành. Tuy nhiên, cổ phiếu Vinamilk 12 tháng qua giao dịch chỉ bằng 3,2% tổng khối lượng cổ phiếu lưu hành, vẫn thấp hơn 16,8% so với mức yêu cầu là 20% của rổ chỉ số này. Tuy vậy, sau khi gia nhập Cộng đồng Kinh tế Đông Nam Á, thanh khoản của cổ phiếu Vinamilk được kỳ vọng tăng và đây cũng là cơ hội cho một cổ phiếu Việt Nam tham gia rổ chỉ số FTSE/ASEAN 40. Để làm được điều này đòi hỏi cả sự nỗ lực của bản thân doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong việc tăng cường phát triển và thúc đẩy hội nhập.

Việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn vào các công ty chứng khoán sẽ là một thách thức lớn cho các công ty chứng khoán nội. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán trên thế giới có bề dày kinh nghiệm,

hoạt động kinh doanh chứng khoán trên phạm vi toàn cầu, có khả năng cung cấp nhiều dịch vụ và sản phẩm tài chính đa dạng, hấp dẫn đối với nhà đầu tư cá nhân. Do đó, thách thức lớn nhất với CTCK nội hiện nay là làm sao tăng cường năng lực cạnh tranh, tìm kiếm cơ hội hợp tác, thu hút vốn ngoại, học hỏi và áp dụng các mô hình kinh doanh, thông lệ quản trị công ty, quản trị rủi ro... Đồng thời phát huy thế mạnh của các CTCK nội là sự am hiểu về môi trường kinh doanh tại Việt Nam, cung cấp dịch vụ ngày càng tốt hơn cho khách hàng, đảm bảo an toàn hệ thống.

TTCK Việt Nam vẫn còn tồn tại một số trở ngại làm giảm tốc độ gia nhập hệ thống Mạng giao dịch liên thông các sở giao dịch các nước Đông Nam Á ASEAN trading link (ASEAN trading link được thành lập ngày 18/9/2011). Hiện tại có ba sở giao dịch đang tham gia Hệ thống này: Sở Giao dịch Chứng khoán Singapore, Malaysia và Thái Lan, và được xem như là một sự hợp tác trao đổi giữa các sở giao dịch với nhau, như một cổng giao dịch cho người môi giới chứng khoán để cung cấp cho nhà đầu tư dễ dàng truy cập đến kết nối. Các trở ngại chính có thể kể đến: Hệ thống giao dịch hiện tại vẫn đang trong quá

trình nâng cấp, hệ thống thanh toán bù trừ tại Trung tâm thanh toán bù trừ Việt Nam cũng đang được nâng cấp cải tiến, thêm vào đó là vấn đề pháp lý, đặc biệt các quy định liên quan đến nhà đầu tư nước ngoài, dòng vốn đầu tư nước ngoài.Các tiêu chuẩn trong lĩnh vực chứng khoán Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn áp dụng theo chuẩn quốc tế như tiêu chuẩn về bản cáo bạch khi các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng

“ASEAN Disclosure Standards”

(hiện nay chỉ có ba quốc gia:

Thái Lan, Malaysia, Singapore áp dụng tiêu chuẩn này). Do vậy, để được gia nhập ASEAN Trading Link, cần phải có sự thống nhất và nỗ lực từ các ban ngành nhằm đưa các quy chuẩn mang tầm quốc tế áp dụng vào hệ thống giao dịch chứng khoán tại Việt Nam.

Bên cạnh các yếu tố kỹ thuật và khung pháp luật, TTCK Việt Nam cần phải thực sự phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.

Hiện tại Việt Nam được xếp vào loại Thị trường cận biên. Trong xu thế hội nhập, Việt Nam phải được nâng hạng ít nhất là ngang tầm với các nước trong khu vực. Theo MSCI, trong khu vực Đông Nam Á, Philippines, Indonesia, Malaysia và Thái Lan là TTCK mới nổi và Singapore là TTCK phát triển. ■

Tài liệu tham khảo

1. Anh Đức (2015). UBCK: Giải pháp nâng hạng TTCK Việt Nam. http://vietstock.vn/2015/02/ubck-giai-phap-nang-hang-thi- truong-chung-khoan-viet-nam-830-403010.htm.

2. Châu Đình Linh (2015). Thị trường trái phiếu Việt Nam khác thế nào so với khu vực? http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/thi- truong-trai-phieu-viet-nam-khac-the-nao-so-voi-khu-vuc-20151001154422556.chn.

3. Lam L., (2010). Doanh Nhan Sai Gon Cuoi Tuan. Retrieved from http://tuanvietnam.net/2010-07-30-muoi-nam-thi-truong- chung-khoan-viet-nam-hy-vong-o-tuong-lai#

4. Lê Thị Năng (2015). Hội nhập TTCK Việt Nam trong cộng đồng kinh tế các nước Đông Nam Á và sự chuẩn bị cho việc gia nhập AEC 2015. Kỷ yếu hội thảo khoa học: Hội nhập thị trường tài chính ASEAN 2015: Cơ hội và thách thức, NXB ĐHQG TP.HCM.

5. Nguyễn Đình Thiên, Nguyễn Thanh Liêm (2015). Định vị vị thế của TTCK Việt Nam với các quốc gia ASEAN. Kỷ yếu hội thảo

(7)

khoa học: Hội nhập thị trường tài chính ASEAN 2015: Cơ hội và thách thức, NXB ĐHQG TP.HCM.

6. Tiếng Anh

7. Awokuse, T.O., Chopra, A and Bessler, D.A. (2009). Structural change and international stock market interdependence: Envi- dence from Asian emerging markets. Economic Modeling, 26,pp. 549-559.

8. Azman-Saini, W. N. W., Azali, M., Habibullah, M. S. and Matthews, K.G. (2002). Financial Integration and the Asean-5 Equity Markets. Applied Economics, 34, pp. 2283-2288.

9. Chen, W. K., Leng, G. K., & Lian, K. K. (2003). Financial crisis and intertemporal linkages across the ASEAN-5 stock markets.

FEA Working Paper. No. 2003- 4, Universiti Malaya.

10. Ibrahim, M.H. (2005). International linkages of stock prices: The case of Indonesia. Management Research News, 28(4), pp.

93-115.

11. Janakiramanan, S. and Lamba, A.S. (1998). An empirical examination of linkages between Pacific-Basin Stock Markets.

Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, 8, pp. 155-173.

12. Karim, B.A and Majid, M. S. A. (2009). International linkages among stock markets of Malaysia and its major trading part- ners. Journal of Asia Pacific and Business, 10(4), pp. 326-351.

13. Karim, B.A. and Karim, Z.A. (2012). Integration linkages among stock markets of Malaysia and its major trading partners.

Journal of Asia Pacific and Business, 10(4), pp. 326-351.

14. Lim, L. K. (2010). Linkages between Asean stock markets: A cointegration approach. ECU Working paper Pre. 2011.

15. Liu, Y, A. and M, S. Pan, 1997. Mean and volatility spillover effets in the US and Pacific-Basin stock markets. Multinational Finance Journal, 1, 47-62.

16. Majid, M. S. A., Meera, A. K. M. and Omar, M.A. (2008). Interdependence of Asean-5 stock markets from the US and Japan.

Global Economic Review, 37(2), pp. 201-225.

17. Ng, T.H. (2002). Stock marketslinkagesin South-East Asia. Asia Economic Journal, 16, pp. 353-377.

18. Nhan N. T. (2011). International Transmission of Stock Returns: Mean and Volatility Spillover Effects in Vietnam, Master Thesis.

19. Phu C. N. V. (2009). Volatility Transmissions and Spillover Effects: An empirical Study of Vietnam’s Stock Market and Other Asian Stock Markets, Master Thesis.

20. Ping W., Peijie W. (2010). Price and volatility spillovers between Greater China and Japan and US markets.

21. Yoshida, Y. (2010). Is this time differentfor Asia? Evidence from stock markets. Discussion Paper Feb 2010, No. 40.

22. Yusof, R. M. and Majid, M. S. A. (2006). Who moves the Malaysian stock market- the US or Japan? Empirical evidence from the pre-, during, and post-1997 Asian financial crisis. Gadjah Mada International Journal of Business, 8, pp. 367-406.

Thông tin tác giả

Nguyễn Tôn Nhân, Nghiên cứu viên Email: ntnhan@ uel.edu.vn

Cao Hải Yến, Cộng tác viên Email: yench14406@ st.uel.edu.vn

Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Tài chính, Đại học Kinh tế - Luật

Summary

Vietnam’s stock market with AEC

During the integration process, the financial markets play an important role in attracting capital for the economy.

The integration of Vietnam’s stock market brings opportunities for the Vietnamese listed companies to have better access to the investment resource from ASEAN Economic Community (AEC) and large economies in the world.

Using the vector autoregression model (VAR), this study analyzes the relationship between Vietnam stock market and ASEAN stock markets and the stock markets of developed economies: US, Japan, Europe and China in two periods: before (2000-2006) and after (2007-2016) Vietnam became a member of the World Trade Organization (WTO). The results show that after joining the WTO, Vietnam’s stock market is affected by ASEAN stock markets and the stock markets of US, Japan, Europe and China more than it was before WTO participation. Especially after joining AEC, Vietnam’s stock market is found to be more integrated with ASEAN stock markets.

Keywords: stock market, VAR model, AEC, WTO.

Nguyen Ton Nhan, Researcher Cao Hải Yen, Collaborator

Center for Economic and Financial Research, University of Economics and Law

Referensi

Dokumen terkait

Thêm vào đó, nghiên cứu mối quan hệ với đòn bẩy tài chính của các công ty cho thấy hàm ý về nhân tố trung gian giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động, khi đòn bẩy tài chính được

Ghi chú: Ghi hàng ngày Ghi định kỳ Đối chiếu, kiểm tra Sơ đồ 2.4: Trình tự ghi sổ trong kế toán thanh toán với người mua tại Công ty TNHH Crystal Martin Việt Nam - Hàng ngày, kế

Những gợi ý về chính sách Kết quả chính của nghiên cứu đã chỉ ra sự tồn tại về mối quan hệ nghịch biến giữa mức độ biến động giá cổ phiếu share price volatility với tỷ lệ chi trả cổ

Tác động của thông báo phát hành thêm cổ phiếu đến khối lượng giao dịch- nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam Võ Xuân Vinh Đặng Bửu Kiếm Ngày nhận: 04/12/2017 Ngày nhận

Xu hướng mở cửa thị trường theo các cam kết hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương cùng với sự tham gia ngày càng nhiều của các nhà bán lẻ lớn trên thế giới tại Việt Nam