• Tidak ada hasil yang ditemukan

TỈ LỆ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN RỐI LOẠN NHẬN THỨC TRÊN BỆNH NHÂN NHIỄM HIV

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "TỈ LỆ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN RỐI LOẠN NHẬN THỨC TRÊN BỆNH NHÂN NHIỄM HIV"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 26 * Số 1 * 2022 Nghiên cứu Y học

TỈ LỆ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN RỐI LOẠN NHẬN THỨC TRÊN BỆNH NHÂN NHIỄM HIV

Võ Hoàng Long1, Ngô Tích Linh1, Phạm Thị Minh Châu1, Hồ Nguyễn Yến Phi1, Bùi Xuân Mạnh1, Trần Anh Ngọc1

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: HIV (Human immunodeficiency virus infection) có thể gây các biến chứng về nhận thức, hành vi và vận động. Việc điều trị HIV bằng các thuốc antivirus giúp ngăn chặn quá trình tổn thương thần kinh, đồng thời giúp làm giảm tỉ lệ các sa sút tâm thần kết hợp với HIV (HAD, HIV-Associated Dementia). Ở Việt Nam hiện nay chưa có nghiên cứu nào về đề tài này.

Mục tiêu: Khảo sát tỉ lệ HAD và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân HIV (người sống chung với HIV).

Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên các đối tượng xác định nhiễm HIV đến khám tại các phòng khám ngoại trú ở Trung Tâm Phòng Chống Bệnh Xã Hội quận 8 và 10, thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 1/2013 đến tháng 12/2013. Phỏng vấn BN bằng bộ câu hỏi nghiên cứu và thang đánh giá quốc tế sa sút tâm thần trên người bệnh HIV (IHDS-International HIV Dementia Scale).

Kết quả: 263 bệnh nhân HIV tham gia nghiên cứu với 65% là nam. Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ HAD là 33,5%. Các triệu chứng HAD thường gặp là quên thường xuyên (25%), cá tính thay đổi (23,2%), vận động chậm chạm (14,4%), lảng tránh tiếp xúc trong công việc (13.7%), cảm thấy khó khăn khi thực hiện công việc (5.3%). Có sự tương quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ HAD với số lượng tế bào CD4 (p=0,013) và bệnh lý tâm thần (p=0,047). Không có sự liên quan giữa tỷ lệ HAD với giới tính, học vấn và các bệnh lý khác (p >0,05).

Kết luận: Tỉ lệ HAD trên nhóm bệnh nhân HIV khá cao. Tỉ lệ HAD tăng khi tình trạng nhiễm HIV trở nên trầm trọng và đồng mắc bệnh lý tâm thần.

Từ khóa: sa sút tâm thần kết hợp với HIV (HAD), HIV, thang IHDS

ABSTRACT

IVESTIGATING THE PREVALENCE OF NEUROCOGNITIVE DYSFUNCTION AND RELATED FACTORS IN HIV-INFECTED PATIENTS

Vo Hoang Long, Ngo Tich Linh, Pham Thi Minh Chau, Ho Nguyen Yen Phi, Bui Xuan Manh, Tran Anh Ngoc * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 26 - No 1 - 2022: 254-260 Background: HIV (Human immunodeficiency virus infection) may lead to negative effect on cognition, behavior and physical movement. Not only can treating HIV with antivirus (AVR) prevent the damage of the neurological system, but also reduce the prevalence of HIV-Associated Dementia (HAD). In Vietnam, until now, there has not been any research relating to this issue.

Objective: Investigating the prevalence of HAD and related factors in HIV-infected patients

Methods: A cross-sectional observational study was performed in HIV-infected patients at the Outpatient Clinic in the Centers of Disease Control and Prevention at District 8 and 10, Ho Chi Minh City from January 2013 to December 2013. Research questionnaire and International HIV Dementia Scale (IHDS) were used to interview.

Results: There were 263 HIV-infected patients participating in the survey with 65% male. The result

1Môn Tâm Thần, Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

Tác giả liên lạc: BS. Võ Hoàng Long ĐT: 0915755857 Email: [email protected]

(2)

showed that the prevalence of HAD was 33.5%. These common symptoms of HAD were impairments in memory (25%), personality (23.2%), motor skills (14.4%), communication (13.7%) and executive function (5.3%). Those who had a low CD4 count (p=0.013) and mental health (p=0.047) were found to be significantly associated with HAD. Sex, educational level and other comorbid illnesses were not relevant to the prevalence of HAD (p >0.05).

Conclusions: The prevalence of HAD is pretty high among HIV-infected patients. The more severity the patients suffering from HIV, the more they exhibit HAD. Also, those who are diagnosed with comorbid mental disorders might highly experience HAD.

Keywords: HIV-Associated Dementia (HAD), HIV, IHDS scale

ĐẶT VẤN ĐỀ

HIV là một virus hướng thần xâm nhập trực tiếp vào não bộ một thời gian ngắn sau khi bị nhiễm bệnh. HIV có thể gây các biến chứng về nhận thức, hành vi và vận động. Các biến chứng này có nhiều mức độ từ rất nhẹ cho đến rất nặng và gây tàn tật. Các tổn thương này có thể trầm trọng và tồn tại suốt đời nếu không được phát hiện và can thiệp kịp thời. Chăm sóc các bệnh nhân AIDS có các triệu chứng suy giảm nhận thức có thể gây nhiều tổn hại về nhân lực, vật lực và thường là gánh nặng cho xã hội.

Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy có khả năng cải thiện về nhận thức khi phát hiện và điều trị sớm bệnh nhân. Việc ứng dụng điều trị HIV bằng các thuốc AVR đã giúp ngăn chặn quá trình tổn thương thần kinh dẫn đến một thực tế là HAD hiện đang giảm dần theo các nghiên cứu trên thế giới. Tuy nhiên tỉ lệ các thể nhẹ hơn vẫn còn đáng kể.

Ở Việt Nam hiện nay chưa có một đánh giá hay nghiên cứu cụ thể nào về HAD trên bệnh nhân nhiễm HIV về tỉ lệ cũng như về mức độ trầm trọng và ảnh hưởng của nó trên bệnh nhân.

Mục tiêu

Xác định tỉ lệ bệnh nhân nhiễm HIV có rối loạn nhận thức, mức độ và các yếu tố liên quan.

Xác định mối tương quan giữa HAD và các yếu tố dịch tể và đặc điểm lâm sàng (bệnh đồng mắc, CD4).

ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tƣợng nghiên cứu

Các đối tượng xác định nhiễm HIV đến khám tại các phòng khám ngoại trú ở Trung

Tâm Phòng Chống Bệnh Xã Hội quận 8 và 10, Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 1/2013 đến tháng 12/2013.

Tiêu chuẩn nhận vào

Đồng ý tham gia nghiên cứu.

Độ tuổi 18-40.

Tiêu chuẩn loại trừ

Các bệnh nhân HIV không đồng ý tham gia nghiên cứu.

Không hoàn tất đầy đủ các mục nghiên cứu vì bất kỳ lý do nào.

Phƣơng pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang mô tả.

Cỡ mẫu

Công thức tính: N= (Z21-α/2 p.(1-p))/d2 Trong đó:

n: cỡ mẫu tối thiểu cần thiết.

Z21-α: hệ số tin cậy với Z21-α= 1,962 tương ứng với α = 0,05 (khoảng tin cậy, CI 95%).

d: sai số biên của ước lượng = 0,05.

p=0,15: tỷ lệ bệnh nhân HIV có HAD theo nghiên cứu của Sacktor.

Thay vào công thức ta ước lượng được cỡ mẫu tối thiểu cần thiết: n = 196.

Phương pháp thực hiện

Được thực hiện vào tháng 1-12/2013 trên toàn bộ người sống chung với HIV (n=263) đang được quản lý và điều trị ngoại trú tại Trung Tâm Phòng Chống Bệnh Xã Hội quận 8 và 10, thành phố Hồ Chí Minh. Người sống chung với HIV khi đến Trung Tâm để khám hàng tháng được

(3)

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 26 * Số 1 * 2022 Nghiên cứu Y học

mời tham gia vào nghiên cứu. Những người đồng ý tham gia nghiên cứu được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi soạn sẵn gồm thông tin về đặc điểm dân số - xã hội, đặc điểm lâm sàng và các bệnh đồng mắc có liên quan.

Khả năng nhận thức của bệnh nhân sẽ được đánh giá bằng thang IHDS (IHDS-International HIV Dementia Scale) là một trong những thang đo được sử dụng phổ biến để đo lường nhận thức trên bệnh nhân HIV. Thang IHDS được phát triển bởi Tiến sĩ Ned C. Sacktor, Giáo sư Thần kinh học, Johns Hopkins Medicine vào năm 2005. Thang đo gồm 3 phần: tốc độ vận động, tốc độ tâm thần vận động, khả năng nhớ.

Mỗi phần được cho điểm từ 0-4; tổng điểm là 12.

Bệnh nhân có tổng điểm ≤10 thì có khả năng bị khiếm khuyết chức năng nhận thức.

Phân tích dữ kiện

Tần số, tỉ lệ phần trăm (%) được dùng để phân tích thống kê mô tả cho các biến định tính như sa sút tâm thần kết hợp với HIV (SAD), nhóm tuổi, giới, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, nghiện chất Phép kiểm định Chi bình phương (χ2) được chúng tôi dùng để xác định mối liên quan giữa HAD với các biến số giới tính, học vấn, số lượng CD4, bệnh lý đồng mắc. Mối liên quan được xem là có ý nghĩa thống kê khi p<0,05. Số liệu thu thập được nhập và xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS 16.0.

KẾT QUẢ

Đặc điểm dịch tể học

Trên tổng số 400 bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên, có 263 bệnh nhân đạt đủ tiêu thuẩn để đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 33 ± 3 tuổi. Đặc điểm dịch tể học của nhóm nghiên cứu được trình bày trong bảng 1.

Bảng 1: Đặc điểm dịch tể học nhóm BN (n=263)

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%)

Giới tính Nam 171 65

Nữ 92 35

Trình độ học vấn

Không đi học 2 0,8

Cấp 1 54 20,5

Cấp 2 112 42,6

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%)

Cấp 3 76 28,9

Đại học – Cao đẳng 19 7,2 Nghề nghiệp

Thất nghiệp 43 16,3 Việc tay chân 186 70,7 Việc trí óc 34 12,9 Thay đổi nghề

nghiệp sau HIV

Không 217 82,5

46 17,5

Tình trạng hôn nhân trước HIV

Độc thân 85 32,3

Kết hôn 139 52,9

Ly hôn 20 7,6

Ly thân 19 7,2

Thay đổi hôn nhân sau HIV

Không 221 84,0

42 16,0

Nghiện chất

Không 118 44,9

Trước nhiễm 145 55,1

Sau nhiễm 0 0

Trong nhóm nghiên cứu, tỉ lệ nam-nữ là 1,8:1. Hơn 2/3 đối tượng nghiên cứu cí trình độ dưới cấp 2, 52,9% kết hôn, 16.3% thất nghiệp.

Sau nhiễm HIV, 84% không thay đổi tình trạng hôn nhân, 82,5% không thay đổi về nghề nghiệp.

Đặc điểm lâm sàng

Tỉ lệ HAD (điểm IHDS ≤10) trong nhóm nghiên cứu là 33,5% (n=88). Thời gian phát hiện nhiễm HIV đến lúc điều trị 7,03 ± 3.752 tháng, thời gian điều trị trung bình 4.95 năm ± 3,25 năm. Các đặc điểm lâm sàng khác được trình bày trong Bảng 2.

Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng của nhóm BN (n=263)

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%) Số lượng CD4 (tế

bào)

< 200 32 12,2

200-500 122 46,4

>500 108 41,1 Mất hệ thống 1 4,0 Rối loạn vận động

Không 222 84,4

“Một chút” 38 14,4

Trung bình 3 1,1

Quên thường xuyên Không 197 74,9

66 25,1

Cá tính thay đổi Không 202 76,8

61 23,3

Thờ ơ lảnh tránh Không 227 86,3

36 13,7

Khó khăn trong công việc

Không 249 94,7

14 5,3

Trong dân số nghiên cứu, có 1 trường hợp mất hệ thống và gần 60% có lượng tế bào CD4

(4)

dưới 500/mm3. Về các triệu chứng HAD, 14,4%

nhận thấy có chậm chạm, ¼ trường hợp nhận thấy hay quên, 23,2% ghi nhận cá tính có thay đổi, 13,7% lảng tránh tiếp xúc trong công việc, 5,3% cảm thấy khó khăn khi thực hiện công việc.

Thang IHDS

Trong dân số nghiên cứu có HAD (n=88), điểm trung bình thang điểm về vận động 2,45 ± 0,772, thang điểm về tâm thần vận động 3,07 ± 0,907. Tỉ lệ điểm trong các thang được trình bày trong Bảng 3.

Bảng 3: Thang điểm IHDS (n=88)

Điểm số Tần số Tỉ lệ (%)

Vận động

1 6 6,9

2 45 51,1

3 28 31,8

4 9 10,2

Tâm thần vận động

1 4 4,5

2 21 23,9

3 28 31,8

4 35 39,8

Điểm số Tần số Tỉ lệ (%)

Trí nhớ

1 1 1,1

1,5 1 1,1

2 4 4,5

2,5 3 3,4

3 18 20,5

3,5 11 12,5

4 50 56,8

Mối tƣơng quan giữa HAD và các yếu tố liên quan

Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm HAD và bình thường về số lượng tế bào CD4 (p=0,013) và bệnh lý tâm thần (p=0,047). Tế bào CD4 thấp và mắc các rối loạn tâm thần có khả năng ảnh hưởng đến mức độ HAD so với nhóm còn lại.

Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm HAD và bình thường về giới tính (p=0,375), học vấn (p=0,305), bệnh lý thần kinh (p=0,096) và bệnh lý hô hấp (p=0,269).

Bảng 4: Mối tương quan giữa HAD và các yếu tố

Yếu tố liên quan SSTT (n=88)

N (%)

Không (n=175)

N (%) Ӽ2 Giá trị p

Giới tính Nam 54 (61,3) 117 (66,8)

0,777 0,378

Nữ 34 (38,7) 58 (33,2)

Học vấn

Không đi học 1 (1,1) 1 (0,5)

4,835 0,305

Cấp 1 23 (26,1) 31 (17,9)

Cấp 2 39 (44,3) 73 (41,7)

Cấp 3 21 (23,8) 55 (31,4)

ĐH – CĐ 4 (4,7) 15 (8,5)

Tế bào CD4 (tế bào)

< 200 18 (20,4) 14 (8,0)

8,756 0,013

200-500 36 (40,9) 86 (49,1)

>500 33 (37,5) 75 (42,9)

Mất hệ thống 1 (1,1) 0 (0)

Bệnh lý tâm thần

Không 50 (56,8) 126 (72)

6,102 0,047

Mắc trước nhiễm 16 (18,2) 21 (12,0)

Mắc sau nhiễm 22 (25,0) 28 (16,0)

Bệnh lý thần kinh

Không 77 (87,5) 160 (91,4)

4,683 0,096

Mắc trước nhiễm 5 (5,7) 12 (6,9)

Mắc sau nhiễm 6 (6,8) 3 (1,7)

Bệnh lý hô hấp

Không 54 (61,4) 124 (70,9)

2,625 0,269

Mắc trước nhiễm 17 (19,3) 28 (16,0)

Mắc sau nhiễm 17 (19,3) 23 (13,1)

BÀN LUẬN

Đặc điểm dịch tể học

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ nhiễm

HIV/AIDS nam:nữ là 1.8:1, kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thanh Long(1), Võ Thanh Nhơn(2) và Mugendi AG(3), nhưng lại không phù hợp nghiên cứu của Namagga W

(5)

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 26 * Số 1 * 2022 Nghiên cứu Y học

(1:2,7)(4), Belete T (1:1,8)(5), Salahuddin M (1:1,7)(6) và Debalkie AM (1:1,2)(7). Sự khác biệt này có thể do phương pháp chọn mẫu, mơi lấy mẫu và sự kì thị ở những quốc gia Châu Á (đối tượng nữ có khuynh hướng giấu bệnh).

Tuổi trung bình trong nhóm nghiên cứu là 33 ± 3 tuổi, thấp hơn so với nghiên cứu của Võ Thành Nhơn (35 ± 7,69)(2), Hladik W (37,0 ± 9,4)(8), Namagga JK (37,9 ± 8,6)(4), Belete T (38,2 ± 9,9)(5) và Debalkie AM (38,8 ± 8,8)(7). Trong nghiên cứu của chúng tôi, đối tượng nhiễm HIV trẻ hơn, đây là một kết quả đáng báo động. Do tuổi càng trẻ thì biểu hiện triệu chứng càng nặng, tiên lượng kém và chi phí điều trị tốn kém hơn nhiều.

Theo kết quả nghiên cứu, 63.9% các đối tượng có trình độ học vấn từ cấp 2 trở xuống.

Kết quả chúng tôi tương đối phù hợp với kêt quả trong nghiên cứu của Belete T (85%)(5), Hladik W(8) (trình độ giáo dục trung bình là 8,7 năm) và Debalkie AM (>80% trình độ cấp 1 trở xuống)(7). Tỉ lệ nhiễm HIV cao ở nhóm đối tượng có trình độ học vấn thấp là một vấn đề cần được quan tâm. Do đó, cần khuyến cáo các chương trình phổ cập về kiến thức và phương pháp phòng chống các bệnh xã hội tiếp cận sớm hơn ở lứa tuổi học đường.

Tỉ lệ thất nghiệp trong nghiên cứu là 16.3%, cao hơn so với nghiên cứu của Debalkie AM (8,8%)(7). Có sự khác biệt này có thể do phương pháp chọn mẫu và nơi lấy mẫu.

Theo nghiên cứu, gần 53% lập gia đình và 16% thay đổi tình trạng hôn nhân sau khi biết nhiễm HIV. Các trường hợp thay đổi này có thể là từ tình trạng kết hôn chuyển qua ly dị hoặc ly thân và một số ít trường hợp bệnh nhân chuyển từ tình trạng độc thân sang kết hôn. Kết quả trên phù hợp với nghiên cứu của Belete T (57,7%)(5) và cao hơn nghiên cứu của Debalkie AM (20,8%)(7). Kết quả này có thể phản ánh sự chấp nhận và cảm thông trong gia đình của bệnh nhân đối với tình trạng bệnh. Điều này có thể tác động đến quá trình điều trị và chất lượng sống của bệnh nhân.

Tỉ lệ có khoảng cách thời gian 7 tháng hoặc ngắn hơn kể từ khi biết nhiễm HIV đến khi khởi đầu điều trị là 60,5%. Tỉ lệ này khá cao, nhưng chúng tôi cũng không tìm thấy nghiên cứu nào đề cập đến khía cạnh này.

Thời gian điều trị trung bình của dân số nghiên cứu 5 năm (dài nhất là khoảng 19 năm).

Trong nghiên cứu của Võ Thanh Nhơn(2), 46,5% thời gian điều trị AVR bậc 2 từ 12-36 tháng. Kết quả này phản ánh đến sự nhận thức bệnh, việc tuân thủ điều trị của bệnh nhân và kéo dài thời gian sống của bệnh nhân theo chiều hướng tích cực.

Tỉ lệ nghiện chất trước nhiễm HIV chiếm 55% (chủ yếu là ma túy, số ít là thuốc lá và rượu). Nhưng sau khi phát hiện nhiễm HIV thì không có phát sinh thêm trường hợp nào sử dụng chất gây nghiện hoặc rượu. Tỉ lệ này khá cao so với nghiên cứu của Belete T (13,7%)(5). Tuy nhiên, kết quả này phù hợp với báo cáo của Ủy ban Phòng chống AIDS Việt Nam qua hội nghị trực tuyến công tác phòng chống AIDS, ma túy, mại dâm tổ chức tại Hà Nội tháng 3/2012 là

“trong số người nhiễm năm 2012 thì lây truyền qua đường tình dục chiếm 45,5%”.

Đặc điểm lâm sàng

Tỉ lệ có số điểm IHDS ≤10 chiếm 33.5%. Tỷ lệ cao hơn so với nghiên cứu của Sacktor NC (10- 15%)(9) và McArthur JC (15%)(10), phù hợp với nghiên cứu của Tsegaw M (36,4%)(11) và Belete T (33,3%)(5) và thấp hơn nghiên cứu của Salahuddin M (39,3%)(6), Namagga JK (58,3%)(4), Debalkie AM (67,1%)(7) và Mugendi AG (88%)(3). Sự khác biệt này có thể là do nhiều nguyên nhân: phát hiện nhiễm HIV ở giai đoạn trễ hoặc đã chuyển qua giai đoạn AIDS; không tuân thủ điều trị hoặc kháng thuốc; không quen với việc thực hiện các trắc nghiệm.

Trong dân số nghiên cứu, 20.7% có lượng tế bào CD4 thấp <200 tb/mm3, khá cao so với nghiên cứu của Heaton RK (2%)(12) và Belete T (10,7%)(5). Gần 60% có lượng tế bào CD4 thấp

<500 tb/mm3, kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Debalkie AM (31,7%)(7). Nguyên nhân

(6)

của sự khác biệt này có thể do phát hiện bệnh trễ, điều trị muộn hoặc không tuân thủ điều trị.

Mối tƣơng quan giữa HAD và các yếu tố

Nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về giới tính và trình độ học vấn giữa nhóm HAD và bình thường. Kết quả tương đồng với nghiên cứu của Salahuddin M(6). Kết quả này khác biệt với nghiên cứu của Namagga JK(4) và Tsegaw M(11).

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có sự khác biệt số lượng trung bình tế bào CD4 giữa các nhóm và HAD (p <0,05), chứng tỏ có mối tương quan về số lượng tế bào CD4 thấp và HAD. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Tsegaw M(11), nhưng không tương đồng với nghiên cứu của Salahuddin M(6).

Nguyên nhân của sự khác biệt này có thể do khác biệt trong phương pháp chọn mẫu, nơi thu thập mẫu, bảng câu hỏi nghiên cứu và bộ xét nghiệm được chọn lựa.

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về bệnh lý thần giữa nhóm bình thường và HAD (p=0,047);

trong khi không có sự khác biệt về bệnh lý thần kinh và hô hấp (p >0,05). Chúng tôi không tìm ra nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề này.

Triệu chứng HAD và thang đánh giá IHDS Điểm trung bình của thang vận động 2,45 ± 0,77, thang tâm thần vận động 3,07 ± 0,9 và thang nhớ lại 3,53 ± 0,67 cho thấy rối loạn về vận động là rối loạn thường gặp nhất ở những người nghi ngờ HAD. So với số điểm tương tự lần lượt là 3,5, 3,1 và 3,3 trong nghiên cứu của Hladik W(8).

Về thang vận động, nghiên cứu cho thấy chỉ 10.2% cố tốc độ vận động tốt, thấp hơn so với nghiên cứu của Belete T (45,7%)(5) và Salahuddin M (42,62%)(6). Về thang tâm thần vận động, 38,9% bình thường, cao hơn nghiên cứu của Salahuddin M (21,3%)(6), thấp hơn nghiên cứu của Belete T (53,4%)(5). 56.8% có thang trí nhớ bình thường, tương đồng với nghiên cứu của Belete T (50,9%)(5) và Salahuddin M (53,6%)(6). Sự

khác biệt có thể do đối tượng tham gia nghiên cứu chưa quen với thang đo.

Theo nghiên cứu, 5,3% người bệnh ghi nhận cảm thấy khó khăn trong công việc, trong khi đó nghiên cứu của Belete T ghi nhậm 9,8% gặp khó khăn trong các hoạt động hàng ngày(5).

KẾT LUẬN

Đây là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam về đề tài HAD trên người bệnh HIV. Hơn 1/3 trường hợp nghi ngờ có HAD. Trong đó, 14,4%

nhận thấy mình có chậm chạp, 25% nhận mình hay quên, 13,7% nhận mình lảng tránh tiếp xúc công việc, 5,3% khó khăn thực hiện công việc.

Có mối tương quan giữa HAD với số lượng tế bào CD4 thấp và bệnh lý tâm thần. Ngoài ra, không có sự khác biệt về giới tính, trình độ học vấn và các bệnh lý khác đi kèm khi so sánh nhóm HAD và nhóm bình thường.

Lời cảm ơn:

Các tác giả chân thành gửi lời cảm ơn đến các bác sĩ và cán bộ y tế tại phòng khám ngoại trú Trung Tâm Phòng Chống Bệnh Xã Hội tại quận 8 và 10, thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho quá trình lấy mẫu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thanh Long, Dương Thúy Anh (2013). "Đặc điểm dịch tễ học, tình trạng lâm sàng và sử dụng dịch vụ của bệnh nhân HIV/AIDS người lớn tại các cơ sở điều trị HIV/AIDS trên 10 tỉnh, thành phố Việt Nam". Y Học Thực Hành, 860(3):6.

2. Võ Thanh Nhơn, Lê Hoàng Hạnh, Tạ Văn Trầm, Nguyễn Hữu Chí (2015). "Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân HIV/AIDS điều trị ARV tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới". Y Học Dự Phòng, 8(168):225.

3. Mugendi AG, Kubo MN, Nyamu DG, et al (2019). "Prevalence and Correlates of Neurocognitive Disorders among HIV patients on antiretroviral therapy at a Kenyan Hospital".

Neurology research International, 2019(13):1-10.

4. Namagga JK, Rukundo GZ, Voss JG (2019). "Prevalence and risk factors of HIV-associated neurocognitive disorders in rural Southwestern Uganda". Journal of the Association of Nurses in AIDS Care, 30 (5):531.

5. Belete T, Medfu G, Yemiyamrew E (2017). "Prevalence of HIV Associated Neurocognitive Deficit among HIV Positive People in Ethiopia: A Cross Sectional Study at Ayder Referral Hospital". Ethiop J Health Sci, 27 (1):67-76.

6. Salahuddin M, Manzar D, Hassen HY, et al (2020). "Prevalence and Predictors of Neurocognitive Impairment in Ethiopian Population Living with HIV". HIV/AIDS, 12:559.

(7)

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 26 * Số 1 * 2022 Nghiên cứu Y học

7. Debalkie AM, Sorrie MB, Birhanu YW, Teshale MY (2019).

"High prevalence of neurocognitive disorders observed among adult people living with HIV/AIDS in Southern Ethiopia: A cross-sectional study". PLoS ONE, 14(3):e0204636.

8. Hladik W, Musinguzi J, Kirungi W, Opio A, et al (2008). "The estimated burden of HIV/AIDS in Uganda, 2005-2010". Aids, 22 (4):503-10.

9. Sacktor NC, Wong M, Nakasujja N, et al (2005). "The International HIV Dementia Scale: a new rapid screening test for HIV dementia". Aids, 19 (13):1367-74.

10. McArthur JC, Hoover DR, Bacellar H, et al (1993). "Dementia in AIDS patients: incidence and risk factors. Multicenter AIDS Cohort Study". Neurology, 43(11):2245-52.

11. Tsegaw M, Andargie G, Alem G, Tareke M (2017). "Screening HIV-associated neurocognitive disorders (HAND) among HIV positive patients attending antiretroviral therapy in South Wollo, Ethiopia". J Psychiatr Res, 85:37-41.

12. Heaton RK, Franklin DR, Ellis RJ, et al (2011). "HIV-associated neurocognitive disorders before and during the era of combination antiretroviral therapy: differences in rates, nature, and predictors". J Neurovirol, 17(1):3-16.

Ngày nhận bài báo: 08/05/2021

Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 10/02/2022 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2022

Referensi

Dokumen terkait

Trên cơ sở các dữ liệu có được tiến hành tổng hợp, phân tích xác định có hay không tình trạng SDD, tính tỷ lệ % và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng SDD với các đặc điểm

Chỉ số T Score: Các nghiên cứu đều cho thấy mật độ khoáng xương thấp đều liên quan đến nguy cơ gãy xương [1][14], những người phụ nữ có mật độ xương thấp đo bất kỳ ở xương nào là yếu tố

Kết quả: Có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các yếu tố thời gian mắc bệnh Basedow của người bệnh, số loại thuốc điều trị trong đơn, số lần dùng thuốc trong ngày, niềm tin về thuốc

Các yếu tố liên quan đến chấp nhận tiêm vắc xin phòng COVID- 19 do VN sản xuất có ý nghĩa thống kê là người dân ở nông thôn chấp nhận tiêm cao hơn thành phố, nhóm tuổi từ 18-29 chấp

Các yếu tố liên quan tuân thủ dùng thuốc có/không bao gồm: tuổi, giới tính nam/nữ, trình độ học vấn trên trung học phổ thông/dưới trung học phổ thông, bệnh mắc kèm có/không, tiền sử gia

319 trên thực tế lâm sàng tại bệnh viện và các phòng khám ngoại trú hiện nay, nếu bác sĩ chỉ chỉ định tầm soát tiền ĐTĐ bằng FPG mà không chỉ định HbA1c vì một số lý do chủ quan, khách

Chúng tôi thấy rằng các yếu tố như: tuổi, lactate máu, VIS, tốc độ bơm ban đầu, số lượng HCL được truyền trong quá trình ECMO và bilirubin cao nhất trong quá trình ECMO có giữa khác

Chúng tôi thấy rằng các yếu tố như: tuổi, lactate máu, VIS, tốc độ bơm ban đầu, số lượng HCL được truyền trong quá trình ECMO và bilirubin cao nhất trong quá trình ECMO có giữa khác