KINH TẾ TÀI CHÍNH
6
Q
uyền rút vốn đặc biệt (SDR) được IMF đưa ra vào năm 1969 theo đề nghị của 10 nước trong Câu lạc bộ Paris gồm: Bỉ, Canada, Pháp, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Anh, Mỹ, Đức như một dạng tài sản dự trữ của các quốc gia thành viên. SDR ra đời cung cấp cho các quốc gia thành viên một nguồn lực bổ sung để có thể duy trì tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ. IMF nhận tiền đóng góp (tương ứng với quyền biểu quyết) và sử dụng nguồn góp đó, cộng thêm với các tài trợ khẩn cấp đặc biệt để cho một số nước thành viên vay, nhằm ổn định cung cầu tiền tệ, tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán ngắn hạn. Số tiền cụ thể mà mỗi quốc gia phải đóng góp được IMF xem xét quyết định căn cứtình hình kinh tế của quốc gia đó. Tuy nhiên, đến năm 1973, khi hệ thống lãi suất cố định Bretton Woods sụp đổ, SDR được IMF định nghĩa lại như một rổ tiền tệ.
Về bản chất, SDR không phải là một loại tiền tệ cụ thể như đồng USD, đồng Yên của Nhật hay đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc… mà SDR được biết đến như một dạng tài sản dự trữ của quốc gia thành viên, một đơn vị quy đổi. Mục đích sử dụng chính của SDR là hợp nhất tiền tệ - mô hình đồng tiền chung giúp gỡ bỏ những hàng rào phi thuế quan, tác động tích cực đến hoạt động kinh tế, tài chính, đầu tư, tiết kiệm chi phí hành chính; đảm bảo dự trữ của các ngân hàng trung ương.
Theo quy định tại Điều XVIII, Điều lệ
IMF, phân bổ SDR được IMF xem xét thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu bổ sung dự trữ dài hạn trên toàn cầu để đạt được các mục tiêu ổn định hệ thống tài chính tiền tệ toàn cầu, đồng thời tránh gây ra áp lực lạm phát.
Với SDR, quốc gia thành viên có thể bổ sung trực tiếp vào dự trữ ngoại hối quốc gia, cho các quốc gia thành viên khác vay hoặc đổi ngoại tệ phục vụ nhu cầu dự trữ ngoại hối của quốc gia.
SDR cũng có thể được mua và bán, trao đổi giữa hai quốc gia mà không có sự can thiệp của IMF. Vì vậy, SDR có thể chia ra thành hai nhóm: Nhóm SDR chính thức được sử dụng cho Ngân hàng Trung ương và các cơ quan Chính phủ phục vụ mục đích thiếu ngoại tệ và nhóm SDR tư nhân phục vụ cho việc
QUYỀN RÚT VỐN ĐẶC BIỆT:
Thực tiễn quốc tế
và hàm ý đối với Việt Nam
TS. VŨ NHỮ THĂNG
Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) được IMF đưa ra vào năm 1969. Nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt thanh khoản trong hệ thống và giúp cung cấp tài chính để khắc phục khủng hoảng và phục hồi kinh tế cho nhiều quốc gia, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã nhiều lần hỗ trợ các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển và thu nhập thấp thông qua SDR. Tác giả nghiên cứu, phân tích cơ chế sử dụng SDR và thực trạng rút vốn tại nhiều quốc gia, từ đó đưa ra hàm ý chính sách nhằm giúp Việt Nam, tận dụng hiệu quả nguồn lực tài chính với chi phí thấp này, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình thực hiện Chương trình phục hồi kinh tế giai đoạn 2022 - 2023.
Từ khóa: Quyền rút vốn đặc biệt, phục hồi kinh tế
Special Drawing Rights were created by IMF in 1969. To address the liquidity shortfall in the global economic system and provide funding to overcome the cri- sis and recover the economies of various countries, the International Monetary Fund (IMF) provided allocations to member nations, especially developing and low-income countries through SDR. The article will analyze the mechanism of SDR use and the fact of SDR drawings in countries for policy implications to as- sist Vietnam in making effective use of this low-cost financing, particularly dur- ing its implementation of the Economic Recovery Program from 2022 to 2023.
Tags: Special drawing rights, economic recovery
KINH TẾ TÀI CHÍNH
QUẢN LÝ NGÂN QUỸ QUỐC GIA | SỐ 237 |3/2022 7 giao dịch SDR trên thị trường quốc tế
tuân theo quy ước của thị trường. Giá trị của SDR được xác định hằng ngày dựa trên một rổ gồm 5 loại tiền tệ quốc tế chính, trong đó USD (42%), Euro (31%), Nhân dân tệ (11%), Yên Nhật (8%) và Bảng Anh (8%).
Cơ chế hoạt động và phân bổ của Quyền rút vốn đặc biệt
Về cơ chế phân bổ
Theo quy định tại Khoản 1, Điều XV và Điều XVIII Điều khoản thỏa thuận của IMF, IMF phân bổ SDR cho các quốc gia thành viên dựa trên quy mô nền kinh tế của một quốc gia và phần đóng góp của quốc gia đó cho IMF. Sự đóng góp này phản ánh vị trí, quy mô nền kinh tế và vị trí của một quốc gia trong nền kinh tế thế giới.
Ví dụ, hiện nay, Mỹ đóng góp nhiều nhất (17,68%), Nhật Bản (6,56%) và Trung Quốc (6,49%). Việc sử dụng và rút vốn SDR là cách bổ sung dự trữ ngoại hối cho quốc gia với chi phí thấp, tránh việc phụ thuộc vào các khoản nợ trong và ngoài nước vốn có chi phí cao.
SDR được phân bổ cho các thành viên tương ứng với mức đóng góp vào IMF, trong đó các quốc gia phát triển đóng góp 48,2%, số còn lại được đóng góp từ các quốc gia mới nổi và đang phát triển (48,6%) và các nước thu nhập thấp (3,2%).
Theo ước tính của Bloomberg, Việt Nam sẽ được quyền rút vốn SDR khoảng 1,56 tỷ USD (với mức đóng góp 0,24%), Philippines khoảng 2,795 tỷ USD (0,43%), Thái Lan khoảng 4,42 tỷ USD (0,67%), Malaysia 4,94 tỷ USD (0,76%) và Indonesia 6,37 tỷ USD (0,98%)...
Ngoài ra các quốc gia thành viên cũng có thể mua, bán SDR cho nhu cầu quốc gia hoặc để thực hiện nghĩa vụ với IMF. Việc mua, bán SDR được thực hiện theo 2 phương thức sau:
Dựa trên nguyên tắc tự nguyện giữa các quốc gia đối tác, Điểm b Khoản 2 Điều XIX Điều khoản thỏa thuận của IMF quy định: “Thông qua thỏa thuận giữa các quốc gia thành viên, quốc gia thành viên có thể sử dụng SDR của quốc gia thành viên khác”.
Nếu quốc gia thành viên không tự tìm được quốc gia thành viên đối tác, Điểm a, Khoản 2, Điều XIX Điều
khoản thỏa thuận của IMF quy định
“quốc gia thành viên có thể sử dụng SDR của quốc gia được chỉ định”.
Quốc gia được chỉ định ở đây do IMF lựa chọn trên nguyên tắc quốc gia có cán cân thanh toán và nguồn dự trữ ngoại hối đủ mạnh, tuy nhiên cũng có trường hợp quốc gia được chỉ định có thể là quốc gia có nguồn dự trữ ngoại hối mạnh nhưng đang gặp khó khăn về cán cân thanh toán. Ngoài ra, IMF cũng chỉ định quốc gia thực hiện giao dịch trong trường hợp quốc gia có nhu cầu bổ sung SDR.
Về cơ chế hoạt động
Cơ chế hoạt động của SDR là tự tạo ra nguồn tài chính và thu phí sử dụng SDR, rồi dùng số tiền này để trả lãi suất cho các quốc gia thành viên trên cơ sở số lượng SDR mà quốc gia đó nắm giữ. Ngoài ra, theo Điều V, Mục 1, mỗi thành viên chỉ giao dịch với IMF thông qua ngân hàng trung ương quốc gia hoặc đại diện của quốc gia hoặc khu vực do IMF quyết định. Theo đó, IMF hướng dẫn việc giao dịch các SDR thông qua cơ quan tài chính hoặc đại diện của nước đó với IMF. IMF cho phép mua và bán SDR trực tiếp và theo kỳ hạn; vay, cho vay hoặc cầm cố SDR;
sử dụng SDR trong hoán đổi; hoặc nhận SDR trong các khoản đóng góp (thông qua các quỹ).
Điều kiện sử dụng
SDR chỉ được phân bổ cho các thành viên IMF tham gia vào Vụ SDR
và hiện tại tất cả các thành viên IMF (190 quốc gia) đều là thành viên của Vụ SDR.
Theo quy định tại Điều khoản thỏa thuận của IMF, phân bổ SDR là một phương thức để tăng dự trữ quốc tế cho các nước thành viên của IMF, cho phép các thành viên giảm bớt sự phụ thuộc vào nợ trong nước hoặc nước ngoài. Việc phân bổ SDR sẽ được đánh giá định kỳ 5 năm một lần và được quyết định dựa trên tình hình cụ thể, phải đáp ứng nhu cầu dài hạn của các nước để bổ sung tài sản dự trữ hiện có và phải nhận được sự ủng hộ rộng rãi từ các thành viên của IMF (sự phân bổ chung phải được Ban Thống đốc phê chuẩn với 85% tổng số phiếu bầu của các nước thành viên). Việc phân bổ SDR thường được thực hiện trong thời kỳ xảy ra khủng hoảng hệ thống, do việc phân bổ SDR không kèm theo điều kiện chính sách như các khoản vay khác của IMF.
Đối với các nước thành viên IMF, việc nhận phân bổ SDR từ IMF là
“miễn phí”. Tuy nhiên, nếu sử dụng số SDR phân bổ, quốc gia thành viên sẽ phải trả phí sử dụng SDR trên phần chênh lệch giữa phân bổ SDR tích lũy và số tiền SDR nắm giữ của họ tính theo lãi suất SDR thả nổi được công bố hằng tuần trên website IMF (hiện đang ở mức 0,05%/năm, nhưng trong lịch sử đã có giai đoạn ở mức 3,8%/
năm). Ngoài ra, các nước thành viên
Hoạt động giao dịch tại ngân hàng Vietcombank chi nhánh Thanh Hóa Ảnh:ĐV
KINH TẾ TÀI CHÍNH
8
IMF phải trả một khoản tiền hằng năm rất nhỏ để trang trải chi phí hoạt động của Vụ SDR - IMF (phí hiện tại khoảng 0,001% trên phân bổ tích lũy của mỗi nước thành viên).
Việc phân bổ chung 456,5 tỷ SDR (tương đương khoảng 650 tỷ USD) được thực hiện vào ngày 23/8/2021 nhằm giải quyết nhu cầu dài hạn trên toàn cầu về dự trữ, xây dựng lòng tin và hỗ trợ sự phục hồi toàn cầu bền vững và linh hoạt. Nó mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia thành viên, đồng thời giúp các quốc gia có thu nhập thấp và thị trường mới nổi đang phải vật lộn để đối phó với tác động của cuộc khủng hoảng COVID-19. Đợt phân bổ này cho đến nay là lớn nhất vì là một ví dụ điển hình về phản ứng hợp tác quốc tế đối với đại dịch COVID-19.
Thời hạn vay và mục đích sử dụng Theo điều khoản thỏa thuận, IMF có quyền rút lại SDR phân bổ một cách vô điều kiện khi IMF thấy cần thiết. Nghĩa là lượng SDR phân bổ chỉ có tính tạm thời, không phải vĩnh viễn, tuy nhiên, từ trước tới nay, IMF chưa có thông lệ rút lại số SDR đã phân bổ.
Các quốc gia khi được phân bổ SDR thì được phép sử dụng SDR vào bất kỳ mục đích nào, trong đó bao gồm cả việc trả nợ vay IMF hay tăng vốn tại IMF, mua sắm hàng hóa, dịch vụ... Tuy nhiên, SDR là một loại tài sản dự trữ chứ không phải tiền, do đó, để sử dụng SDR, các quốc gia có thể trao đổi SDR của mình lấy tiền với các thành viên IMF khác. Điều này được thực hiện trên cơ sở tự nguyện mua bán giữa các quốc gia.
Hiệu quả sử dụng SDR phải được đánh giá một cách tổng thể, thông qua xem xét việc quản lý dự trữ quốc gia và sự cân bằng giữa việc nắm giữ SDR và các hình thức dự trữ khác phù hợp với chiến lược tài chính tổng thể của một quốc gia, để đáp ứng nhu cầu chi tiêu khẩn cấp, đồng thời đảm bảo sự ổn định lâu dài.
Nghiên cứu của Bộ Tài chính Hoa Kỳ (năm 2010) trong việc phản ánh về việc phân bổ năm 2009 cho thấy, việc sử dụng SDR đã giúp khôi phục niềm tin của thị trường và hỗ trợ phục hồi toàn cầu. SDR giúp thu hẹp khoảng cách tài khóa, đáp ứng các nghĩa vụ đối ngoại hoặc chống lại tình trạng thiếu
hụt ngoại hối ở các quốc gia được phân bổ. Đặc biệt, vai trò của SDR trong khủng hoảng tài chính rất quan trọng cho các nước đang phát triển và kém phát triển (ví dụ, phân bổ SDR của Uganda chiếm 860% dự trữ quốc tế vào khủng hoảng tài chính năm 2018).
Đa số lo ngại về ảnh hưởng của SDR đều liên quan tới lạm phát và thâm hụt cán cân thanh toán. Theo United Nation (năm 2012), SDR có thể gây ảnh hưởng tiêu cực tới tính bền vững của cán cân thanh toán, tạo áp lực lên tỷ giá, lạm phát từ đó đe dọa sự ổn định vĩ mô và tăng trưởng sau khủng hoảng.
Nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) năm 2016 xem xét việc phân bổ SDR năm 2009 cho thấy, các quốc gia nhận được SDR có giá trị “lớn hơn 10% dự trữ ngoại hối của họ” thường bị lạm phát cao hơn các quốc gia khác. Tuy nhiên, nghiên cứu của ECB cho rằng, kết quả này còn bị ảnh hưởng bởi chính sách nới lỏng tài khóa được áp dụng tại các quốc gia trên trong thời kỳ khủng hoảng. Vì vậy, theo IMF ảnh hưởng của SDR đối với lạm phát được chứng minh là không lâu dài và có thể được kiểm soát bằng các công cụ tiền tệ, tài khóa. Chuyên gia Edwin Truman (năm 2019) nhận xét rằng: “SDR có thể được sử dụng như một công cụ quản lý khủng hoảng mà không đáng quan ngại về ảnh hưởng tiêu cực”. (Bảng 1)
Thực trạng sử dụng vốn SDR
Theo dữ liệu mới nhất được IMF công bố ngày 31/8/2021 cho thấy, các quốc gia đã nhanh chóng sử dụng số SDR được phân bổ để hỗ trợ nền kinh tế và đẩy mạnh cuộc chiến chống lại cuộc khủng hoảng do đại dịch COVID-19 gây ra. Cụ thể:
Nhóm các nước rút phần lớn SDR:
Chủ yếu là các quốc gia đang phát triển
và các quốc gia có thu nhập thấp như:
Các nước thuộc Trung Phi: Thông qua Ngân hàng Trung ương Trung Phi, Chad đã rút 100% SDR mới trị giá 191 triệu USD; Cộng hòa Công- gô đã rút 96,9% vốn SDR, với mục đích hỗ trợ “đầu tư xã hội và cơ sở hạ tầng trong nước”.
Bosnia và Herzegovina: Đã rút 100% vốn SDR (tương đương với 362 triệu USD). Trong đó, khoảng 120 triệu USD đã được Liên bang Bosnia và Herzegovina phân chia cho các chính quyền địa phương nhằm cải cách và đầu tư cơ sở hạ tầng, cũng như các chương trình xã hội và y tế để chống lại đại dịch. Republika Srpska, thuộc Bosnia và Herzegovina cũng nhận được khoảng 120 triệu USD nhằm hỗ trợ ngân sách để tăng chi tiêu giải quyết các vấn đề xã hội.
Comoros đã rút 24,2 triệu USD (chiếm 99,7% giá trị SDR). Mục đích sử dụng SDR của quốc gia này không được công khai, tuy nhiên gần đây Chính phủ Comoros đã công bố các biện pháp để giải quyết cuộc khủng hoảng lương thực nghiêm trọng trong nước. Năm 2020, Comoros cũng đã nhận được khoản giải ngân theo Quỹ tín dụng nhanh của IMF và sử dụng công cụ tài trợ nhanh để đáp ứng các nhu cầu tài chính cấp bách.
Antigua và Barbuda: Đã rút khoảng 99,1% lượng SDR tương đương với khoảng 27,1 triệu USD. Không có chi tiết về mục đích sử dụng, tuy nhiên Antigua và Barbuda đang xem xét thực hiện “Chiến lược phục hồi kinh tế” do IMF đề xuất vào đầu năm 2021 do những thách thức từ đại dịch. Ngoài ra, dịch bệnh đã khiến ngành Du lịch của Antigua và Barbuda bị ảnh hưởng nghiêm trọng, dẫn đến nhiều rủi ro tài chính trong nước.
Ecuador đã sử dụng 99,57% SDR
BẢNG 1. MỘT SỐ LỢI ÍCH VÀ RỦI RO TRONG VIỆC SỬ DỤNG SDR
LỢI ÍCH RỦI RO TIỀM ẨN
Ổn định hệ thống tài chính tiền tệ toàn
cầu Thâm hụt cán cân thương mại
Tránh gây ra áp lực lạm phát dài hạn Tăng áp lực lạm phát tạm thời trong ngắn Khôi phục niềm tin của thị trường hạn
Hỗ trợ phục hồi toàn cầu
Hỗ trợ tình trạng thiếu hụt ngoại hối ở các quốc gia
Nguồn: Tổng hợp
QUẢN LÝ NGÂN QUỸ QUỐC GIA | SỐ 237 |3/2022 9 tương đương với gần 950 triệu USD
mới được phân bổ. Ngành Du lịch Ecuador cũng như nền kinh tế đang bị ảnh hưởng nặng nề do đại dịch COVID-19, khiến lượng dự trữ ngoại hối của quốc gia này trở nên cạn kiệt.
Gần đây, chính phủ Ecuador đã công bố kế hoạch sử dụng SDR, chủ yếu cho đầu tư và hỗ trợ giải quyết các vấn đề xã hội, các gói hỗ trợ sau đại dịch.
Sri Lanka đã sử dụng 85,2% SDR (tương đương gần 673 triệu USD).
Tương tự Antigua và Barbuda và Ecuador, thu nhập từ khách du lịch giảm mạnh trong thời kỳ đại dịch kéo dài khiến việc dự trữ ngoại hối ngày càng cạn kiệt. Việc rút vốn SDR của Sri Lanka sẽ góp phần hỗ trợ nước này có
nguồn ngoại tệ thực hiện nhập khẩu lương thực, nguồn cung quan trọng cho đất nước.
Nhóm các nước rút một phần: Theo CEPR, một số quốc gia mới chỉ rút một phần vốn SDR cũng chủ yếu là các quốc gia đang và kém phát triển, bao gồm: Argentina đã rút 58,97%, Ai Cập đã rút 30%, Lebanon đã rút 9%, Myanmar đã rút 32,21%, Pakistan đã rút 25,49%, Nam Sudan đã rút 74,81%, Ukraine đã rút 70,87%, Zambia đã rút 24,4%, Zimbabwe đã rút 38,14% và Nê-pan đã rút 30%.
Một số hàm ý cho Việt Nam
Thực trạng rút vốn SDR tại các quốc gia trong thời gian qua cho thấy,
đặc điểm chung mà các quốc gia sử dụng SDR là những nước đang phát triển, bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch bệnh COVID-19 (các nước châu Phi, Myanmar), những nước có ngành Du lịch bị đình trệ khiến nguồn cung ngoại hối bị cạn kiệt (Ecuador).
Nhìn chung, lần phân bổ SDR gần đây của IMF đã hỗ trợ khá tích cực cho các nước bị ảnh hưởng dịch bệnh, đặc biệt là khu vực châu Phi để giải quyết các nhu cầu cấp thiết và phục hồi kinh tế.
Đối với Việt Nam, theo số liệu IMF công bố ngày 31/8/2021, Việt Nam đã rút 38,6 triệu SDR (2,72%), tương ứng với khoảng hơn 54 triệu USD. Hiện tại, Việt Nam còn 1,38 tỷ SDR, tương đương với 1,9 tỷ USD chưa được sử dụng.
Trong bối cảnh nhu cầu về tài chính tương đối lớn phục vụ quá trình phục hồi và phát triển kinh tế trong những năm tới, đặc biệt là trong ngắn hạn (2022-2023), Việt Nam có thể cân nhắc sử dụng SDR như một khoản vay đặc biệt có lãi suất thấp để tài trợ một số hạng mục cấp thiết (thuốc, vật tư y tế chống dịch, nâng cấp hệ thống y tế dự phòng…). Tuy nhiên, việc sử dụng SDR cần phải được cân nhắc thận trọng cùng với một số lưu ý về ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát. Việc rút và sử dụng SDR sẽ làm tăng chi tiêu, do đó cần phải có kế hoạch thận trọng để đảm bảo đúng mục tiêu, phù hợp kế hoạch chi tiêu trung hạn, tránh gây áp lực lạm phát hoặc phát sinh bội chi trong tương lai.
Do đó, sử dụng SDR đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ của các công cụ tài khóa, tiền tệ và các biện pháp bình ổn giá cả kèm theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. IMF (2021), Special Drawing Rights 2. IMF (2009), Balance of Payments Manual (Sổ tay cán cân thanh toán)
3. IMF (2021), Special Drawing Rights Allocations and Holdings for all members as of November 30, 2021
4. CEPR (2021), First Available Data Shows Countries Are Using Special Drawing Rights to Stabilize Their Economies and Address the Pandemic
5. Các tài liệu liên quan khác Ngày nhận bài: 17/12/2021 Ngày đưa phản biện: 24/12/2021 Ngày chấp nhận đăng: 14/3/2022 Email: [email protected]
HÌNH 1. TỶ TRỌNG SDR NẮM GIỮ TRÊN SDR PHÂN BỔ CỦA CÁC NƯỚC RÚT NHIỀU VỐN SDR
Nguồn: IMF
BẢNG 2. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG SDR CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2009 - 2021 Năm Lượng SDR phân bổ Lượng SDR
đã rút SDR còn lại
Số lượng Tỷ trọng (%) Số lượng Tỷ trọng (%)
2009 314.792.001 14,960 47.093.232 267.698.769 85,040 2010 314.792.001 14,911 46.938.435 267.853.566 85,089 2011 314.792.001 14,859 46.774.140 268.017.861 85,141 2012 314.792.001 14,840 46.715.245 268.076.756 85,160 2013 314.792.001 14,852 46.751.617 268.040.384 85,148 2014 314.792.001 14,866 46.797.635 267.994.366 85,134 2015 314.792.001 14,875 46.826.472 267.965.529 85,125 2016 314.792.001 14,887 46.863.853 267.928.148 85,113 2017 314.792.001 14,558 45.828.108 268.963.893 85,442 2018 314.792.001 13,630 42.906.815 271.885.186 86,370 2019 314.792.001 12,732 40.080.375 274.711.626 87,268 2020 314.792.001 12,280 38.656.715 276.135.286 87,720
2021 2,724 38.681.356 97,276
Nguồn: IMF