CHƯƠNG 2. TÌM HIỂU MỘT SỐ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TIÊU
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác làng nghề truyền thống
3.2.2. Đào tạo lao động và nhân lực du lịch cho làng nghề truyền thống
84
xây dựng mới các cơ sở lưu trú đạt tiêu chuẩn quốc tế, nâng cao chất lượng phương tiện phục vụ vàthực hiện việc tiếp đón đoàn khách tại sân bay đến làng nghề. Trong mua sắm, cần rà soát, xem xét hoạt động tại các trung tâm trưng bày sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ Huế, trung tâm trưng bày làng nghề đúc đồng ở Phường Đúc, khảo sát các điểm kinh doanh hàng lưu niệm ở các điểm di tích, điểm tham quan, như tại cầu Ngói Thanh Toàn (làng nghề nón lá Thủy Thanh), ... để có cái nhìn toàn cục hơn về sản xuất, mức độ tiêu thụ của các sản phẩm và tính hiệu quả khi đưa vào hoạt động của các điểm mua sắm. Từ đó, có thể định hướng được mức đầu tư và xây dựng thêm các địa điểm mua sắm, bán hàng lưu niệm phục vụ cho nhu cầu của du khách.
85
chủ cơ sở, các nghệ nhân, thợ giỏi tại các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch; đồng thời, khuyến khích sự hợp tác giữa các nghệ nhân với các trường dạy nghề, công ty hợp tác để dạy nghề cho lớp trẻ, khôi phục kỹ thuật sản xuất truyền thống, giữ gìn bản sắc của làng nghề. Hiện nay, dòng tranh dân gian làng Sình chỉ có nghệ nhân Kỳ Hữu Phước là người nắm rõ nhất, vì vậy có thể mời nghệ nhân về giảng dạy tại các khoa Mỹ thuật của trường đại học, trường cao đẳng nghề để đưa nghề làm tranh đến gần hơn với thế hệ trẻ và hun đúc niềm đam mê của người trẻ với dòng tranh dân gian truyền thống của làng nghề.
Huy động kinh phí hỗ trợ từ các doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước để xây dựng mô hình dạy nghề theo lối truyền nghề, đây là một trong những phương pháp đào tạo tại chỗ bằng cách tự tổ chức lớp và mời các nghệ nhân hoặc thợ giỏi đến dạy nghề. Hình thức truyền nghề truyền thống này vẫn mang lại những hiệu quả cao và hàm chứa yếu tố văn hóa của làng nghề, trong đó các nghệ nhân truyền nghề cho các học viên chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và vốn sống nghề của mình. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có cơ hội tham gia học nghề và có cơ hội được học nghề để nâng cao trình độ tay nghề, từ đó họ mới có thể sống được dựa vào thu nhập từ làng nghề và công việc của họ, việc này cũng góp phần giảm đáng kể chi phí đào tạo của cả cá nhân và xã hội. Với hình thức dạy nghề này, các nghệ nhân không chỉ truyền đạt lại kinh nghiệm, cách thức sản xuất ra các sản phẩm mà còn phải truyền lại ngọn lửa đam mê, nhiệt huyết với nghề truyền thống của quê hương. Để người học thấy được giá trị của nghề truyền thống mà ông cha đã truyền lại, từ đó thúc đẩy họ giữ gìn và phát huy nghề truyền thống ấy đến cả thế hệ mai sau.
Song song với việc tổ chức các khóa đào tạo dài hạn (1 - 3 năm), chính quyền địa phương nơi có làng nghề nên tổ chức các khóa đào tạo nghề ngắn hạn tại chỗ nhằm trang bị cho người học các kiến thức, kỹ năng sản xuất và thái độ nghề nghiệp đủ để thực hiện một số nhiệm vụ hay sản xuất được các mẫu sản phẩm nhất định theo thời hạn và theo nhu cầu của thị trường. Giải pháp này có thể áp dụng ngay với làng gốm Phước Tích, bởi với tình hình hiện nay tại làng gốm thì việc đào tạo nhân lực ngắn hạn là rất cần thiết cho quá trình gia tăng năng suất lao động, đáp ứng nguồn cung cho thị trường hiện nay. Ngoài ra, cần phát triển mô hình dạy nghề, nâng cao tay nghề tại chỗ này, góp phần giảm đáng kể chi phí đào tạo của cả cá nhân và xã hội đồng thời người học biết được nhu cầu việc làm ở địa phương; biết được chính sách và nhiệm vụ của người đi học;
86
biết được khi học xong thì cơ hội việc làm ở địa phương mình như thế nào đồng thời với các lớp học này sẽ giúp các cơ sở sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tiếp cận các kỹ thuật mới, công nghệ mới.
Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề theo hướng hiện đại, hợp lý cũng là một giải pháp quan trọng. Vì hiện nay, cơ cấu trình độ, cơ cấu nghề, đào tạo nghề cho lao động nông thôn chưa phù hợp, chưa bổ sung kịp thời các nghề mới theo yêu cầu của thị trường lao động, thậm chí có chương trình, giáo trình dạy nghề đã lạc hậu, trong khi đó, mạng lưới cơ sở dạy nghề nói chung tuy đã phát triển nhưng chủ yếu tập trung ở đô thị. Khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu số lượng cơ sở dạy nghề rất ít, quy mô dạy nghề nhỏ, hoặc có thì diện tích ít, thiếu xưởng thực tập thực hành...
Do đó, song song với việc mở các cơ sở dạy nghề gắn với địa phương nơi có làng nghề truyền thống, cũng cần hoàn thiện hệ thống dạy nghề theo hướng thực hành và tăng cường phân luồng học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông vào học nghề, đa dạng hóa hình thức đào tạo và thực hiện xã hội hóa dạy nghề; xây dựng hệ thống dạy nghề theo hướng hiện đại, phù hợp, linh hoạt, có đột phá về cơ cấu và chất lượng đào tạo. Bên cạnh đó, cần nâng cao trình độ văn hóa giáo dục cho lao động tại các làng nghề truyền thống bởi đa số lao động ở đây được truyền nghề từ nhỏ nên bỏ học rất sớm, dẫn đến hạn chế việc tiếp thu những kiến thức mới. Đây là một trong những yếu tố cơ bản có tính chất quyết định đến chất lượng lao động tại các làng nghề truyền thống này. Ví dụ, có thể đưa các hoạt động làm gốm, làm tranh vào các tiết học ngoại khóa cho các em học sinh. Điều này không chỉ tạo ra sự mới mẻ, lý thú cho buổi học mà còn khơi dậy sức sáng tạo của học sinh; giúp các em có cơ hội bộc lộ năng khiếu;
góp phần định hướng nghề nghiệp từ sớm với những em thật sự có tài năng và đam mê với nghề.
Để khuyến khích sức sống của làng nghề cũng như kịp thời ghi nhận lại những đóng góp, cần tiêu chuẩn hóa và định kỳ xét tổ chức công nhận và trao tặng các danh hiệu cao quý như nghệ nhân cấp tỉnh, nghệ nhân ưu tú, nghệ nhân nhân dân,...; cũng như có khen thưởng thích đáng cho những người thợ giỏi và phong tặng thợ bàn tay vàng, thợ cả và một số danh hiệu khác; đặc biệt là cần tổ chức tuyên dương định kỳ cho những doanh nhân, chủ cơ sở trong làng nghề có
87
tài làm ra những sản phẩm chất lượng cao, những người có phát minh sáng chế, cải tiến máy móc thiết bị sản xuất phục vụ cho sự phát triển của làng nghề.
Để nghề truyền thống của địa phương không bị mai một, cũng như kịp thời học hỏi, thì trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay chính quyền địa phương các làng nghề cần tăng cường khả năng hợp tác dạy nghề trong nước và trong khu vực các nước ASEAN, đặc biệt chú trọng hợp tác với những địa phương có kinh nghiệm trong lĩnh vực đào tạo nghề cho các làng nghề nói chung và cho làng nghề truyền thống phục vụ du lịch nói riêng như Hà Nội, Quảng Nam, hay các nước bạn Thái Lan, Nhật Bản,...
3.2.2.2. Đào tạo và nâng cao kỹ năng làm du lịch cho lực lượng lao động tại làng nghề truyền thống
Trong xu thế hội nhập quốc tế, tỉnh Thừa Thiên - Huế là địa phương có một hệ thống các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch phong phú và đa dạng, đây là lợi thế để tỉnh có thể thực hiện mục tiêu đưa ngành kinh tế du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Vì vậy, bên cạnh đào tạo tay nghề cho nguồn lao động ở các làng nghề truyền thống, thì nhu cầu cần thiết là phải đào tạo kỹ năng làm du lịch cho nguồn lao động tại làng nghề truyền thống phục vụ du lịch trên địa bàn tỉnh.
Trong những năm gần đây, doanh thu từ hoạt động du lịch tại các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch đã và đang mang lại hiệu quả rất lớn cho ngành du lịch ở tỉnh Thừa Thiên - Huế. Tuy nhiên, hiện nay mô hình phát triển các làng nghề truyền thống này chủ yếu dựa vào các chương trình dự án được tài trợ cho tỉnh. Trên cơ sở đó, nhiều hộ gia đình ở các làng nghề truyền thống này chưa mặn mà và tin tưởng vào tính bền vững của mô hình này nên không đầu tư nâng cấp nhà cửa, ruộng vườn, làng nghề, mặc dù có rất nhiều sản vật phong phú và nhiều nghề truyền thống độc đáo. Đó cũng bởi vì họ chưa có kỹ năng làm du lịch, không phát huy được thế mạnh của địa phương, nên nông dân khó có thể tạo được nguồn thu nhập tối ưu từ hoạt động du lịch.
Phải quy hoạch lại các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch trở thành điểm tham quan du lịch, sau đó định hướng cho người dân cách thức, phương pháp làm du lịch chuyên nghiệp, cũng như trang bị cho họ kỹ năng làm du lịch, doanh nghiệp lữ hành và các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch cần hợp tác chặt chẽ để thiết lập nên các tour tham quan làng nghề. Từ đó, để phát triển hiệu
88
quả làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên - Huế, cần phải chủ động tạo điều kiện cho nông dân có kỹ năng làm du lịch, cụ thể:
- Tổ chức lớp học tiếng Anh giao tiếp cho số người trong độ tuổi lao động, còn trẻ, có khả năng tiếp thu. Đây là một trong những ưu tiên hàng đầu, là yếu tố quan trọng trong việc thu hút lượng du khách nước ngoài đến với làng nghề truyền thống. Bởi rào cản ngôn ngữ đôi khi khiến du khách nước ngoài không thể cảm nhận được hết giá trị của các sản phẩm truyền thống và đôi khi cũng gây khó khăn trong việc tìm hiểu các thông tin về làng nghề truyền thống.
- Tổ chức triển khai đào tạo tại địa phương cho những người dân đang trực tiếp tham gia hoạt động du lịch với hai nội dung chính được đào tạo là kỹ năng tổ chức quản lý và nghiệp vụ du lịch. Mỗi khóa học nông dân làm du lịch, cần trang bị những kiến thức cơ bản như: nghệ thuật mời khách, phương pháp bảo quản các sản phẩm nghề truyền thống, cách làm tăng giá trị đặc sản quê nhà.
Do học viên là người dân làng nghề nên có những bài học được trình giảng phải rất cụ thể, dễ hiểu. Người hướng dẫn dùng nhiều động tác thị phạm để cho học viên hiểu những chi tiết quan trọng từ khi chào khách mới bước chân vào quán, đặt bàn mời khách ngồi đúng vị trí, chuyện trò để giữ chân khách ở lại thời gian dài hơn, cách trả lại tiền thừa cho du khách...
Trên cơ sở đó, nhiều người dân ở làng nghề có thể sẽ trở thành những người làm du lịch khá chuyên nghiệp. Họ sẽ tự thiết kế những tour riêng, có những ý tưởng du lịch độc đáo mới mẻ trên chính quê hương mình; đồng thời họ sẽ không chỉ biết làm hài lòng du khách bằng nụ cười thân thiện, bằng sự ân cần, cởi mở mà còn bằng cả những món ăn, những món quà lưu niệm. Ngoài ra, cần nâng cao kỹ năng làm du lịch cho đội ngũ lao động thuộc doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh, cụ thể:
Về phía chính quyền địa phương nơi có làng nghề truyền thống có tiềm năng phát triển du lịch cần rà soát, đánh giá lại số lượng, chất lượng, xây dựng kế hoạch và tổ chức đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý, trình độ chuyên môn và ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ, lao động hiện có. Thường xuyên tổ chức tập huấn nội dung quản lý Nhà nước về du lịch, về văn hóa du lịch cho đội ngũ cán bộ và nhân dân ở các huyện, thị xã và các xã trọng điểm về du lịch.
Đồng thời, tăng cường mở các lớp đào tạo về nghiệp vụ lễ tân, buồng, bàn, bar, bếp, ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ, lao động ở doanh nghiệp theo hình thức tại
89
chỗ, đồng thời hướng dẫn cho cư dân ở làng nghề truyền thống phục vụ du lịch cách làm du lịch.
Việc quan tâm xây dựng đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên du lịch ở các điểm du lịch tại các làng nghề truyền thống cũng là một việc làm cần thiết. Trước mắt, tập trung xây dựng, củng cố đội ngũ thuyết minh viên ở một số khu, điểm du lịch. Từ đó chỉ đạo, hướng dẫn các nhà đầu tư có kế hoạch tuyển chọn, đào tạo đội ngũ lao động là người địa phương ngay từ khi bắt đầu triển khai đầu tư dự án để bố trí sử dụng khi dự án hoàn thành.
3.2.3. Phát triển thị trường cho sản phẩm của làng nghề truyền thống đồng