CHƯƠNG 2. TÌM HIỂU MỘT SỐ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TIÊU
2.1. Một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Thừa Thiên- Huế
2.1.3. Làng đúc đồng ở Phường Đúc
40
màu tím đặc trưng, càng làm cho vẻ đẹp của người phụ nữ thêm uyển chuyển và mềm mại trên từng bước chân thong thả, dịu dàng.
Có thể nói, nghề làm nón ở Huế xuất phát từ nhu cầu của đời sống dân gian. Nón vừa là vật dụng khá tiện lợi, phù hợp với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, giá lại rẻ, vì vậy, nón Huế rất được ưa chuộng. Nón Huế xuất hiện ở mọi nơi và ai cũng có thể đội nón Huế, từ cụ già đến em bé, hướng dẫn viên và cả những du khách nước ngoài,... Nón lá là sản phẩm thủ công mỹ nghệ đầu tiên được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp chứng nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lý vào tháng 8/2010 [28]. Đây chính là cơ sở để nghề làm nón ở tỉnh Thừa Thiên - Huế nói chung và ở làng nghề nón lá Thủy Thanh nói riêng ngày càng gia tăng sản lượng các sản phẩm nón, đi cùng với đó là chất lượng các sản phẩm nón lá luôn được đặt lên hàng đầu, để giữ vững thương hiệu riêng của nón Huế.
41
Rất nhiều sản phẩm của người thợ đúc đồng Phường Đúc khi xưa đã trở thành những kiệt tác di sản trong kho tàng văn hóa vật thể kinh thành Huế như:
Vạc đồng ở Đại Nội (1659-1684), Chuông chùa Thiên Mụ (1710), Cửu Đỉnh đặt trước Thế Miếu (1835-1804), Cửu Vị Thần Công đặt trước Ngọ Môn (1803- 1804), Chuông chùa Diệu Đế (1846) và rất nhiều các vật dụng thờ cúng bằng đồng từ “trong cung ra ngoài nội” ở Huế. Các chùa ở Huế cũng có rất nhiều tượng phật bằng đồng với niên đại thuộc đầu thế kỷ XX, gần hơn là tượng danh nhân Phan Bội Châu cao gần 4m đặt ở khu lưu niệm Phan Bội Châu- Huế qua bàn tay tài hoa của những nghệ nhân và người thợ Phường Đúc (1974) [13].
Vào giai đoạn những năm 1965 - 1975, ở Phường Ðúc chỉ có khoảng 40 hộ làm nghề đúc đồng. Trải qua nhiều thăng trầm, song giai đoạn hiện nay vẫn được xem thời kỳ thịnh nhất. Vào thời đó, người thợ đúc qua tầng lớp thương nhân, đã được cung cấp một số lượng lớn từ phế phẩm của chiến tranh, gồm các loại khí cụ, đạn dược bằng nhôm, gang, đồng. Những mặt hàng thường thấy trước đó như soong, nồi, chảo, mâm, thau,... được đúc thay bằng nhôm. Do yếu tố kỹ thuật đúc nhôm đơn giản hơn, khuôn nhôm có thể dùng lại nhiều lần, sản phẩm bằng nhôm nhẹ, đẹp, giá thành thấp, vì thế lượng tiêu thụ ngày càng nhiều.
Từ năm 1975 đến nay, các mặt hàng sản xuất bằng đồng, gang, nhôm ngày càng phong phú, phục vụ trên nhiều lĩnh vực như công nghiệp, hàng tiêu dùng, mỹ nghệ, nghi lễ, phong tục. Chính vì vậy, số lượng các lò đúc ở Phường Đúc từ con số 2 vào năm 1975 đến nay đã có trên 60 lò chuyên sản xuất mặt hàng này. Hiện tại, làng Đúc đồng Huế nằm trên địa bàn Phường Phường Đúc và một phần của Phường Thủy Xuân [13].
2.1.3.2. Đặc điểm của sản phẩm làng nghề
Các nghệ nhân ngày nay ở Phường Đúc sở hữu đôi tay tài hoa và khéo léo đã cho thấy sự phát triển liên tục của làng nghề, cũng như sự liên tục ở đỉnh cao về kỹ thuật và nghệ thuật của làng đúc đồng Huế. So với các làng nghề truyền thống khác ở Huế, Phường Đúc hiện nay là một trong những nơi sinh hoạt nghề nhộn nhịp nhất. Bởi Phường Ðúc còn nhiều nghệ nhân tâm huyết với nghề và đã được vinh danh như: nghệ nhân Nguyễn Văn Sính, Nguyễn Văn Viện, Nguyễn Văn Ðệ, Nguyễn Văn Trai, Nguyễn Trường Sơn,... [5]
Các nghệ nhân này đã và đang nỗ lực truyền nghề cho hậu thế, tiêu biểu là nghệ nhân Nguyễn Văn Sính – người con đời thứ 11 của dòng họ Nguyễn - Kinh
42
Nhơn đã kế nghiệp nghề đúc đồng, là một trong những người có công đào tạo được hơn 100 người trưởng thành với nghề đúc đồng và đã có 26 học trò của ông mở lò đúc ngay tại Phường Đúc để duy trì nghề truyền thống. Ông được phong tặng là nghệ nhân dân gian nghề truyền thống đầu tiên ở Huế. Ông Sính còn có hai người con tốt nghiệp đại học, tiếp bước nghề đúc đồng của cha ông, đó là Nguyễn Trường Sơn và Nguyễn Phùng Sơn, chủ hai cơ sở đúc đồng ở Huế và Ðồng Nai [5].
Nét đáng quý trong sản xuất các sản phẩm ở Phường Đúc là quá trình kỹ thuật truyền thống vẫn được những người thợ gìn giữ gần như nguyên vẹn. Các mặt hàng sản xuất bằng đồng ở Phường Ðúc ngày càng phong phú, song ít có sự can thiệp của kỹ thuật hiện đại. Những nghệ nhân nơi này dựa vào đôi tay khéo léo, kinh nghiệm và những công cụ giản đơn đã làm nên những sản phẩm vô cùng giá trị. Ngoài việc thay chiếc bệ tạo gió thủ công bằng động cơ thổi khi nấu nguyên liệu, sử dụng khuôn đúc cát của các lò đúc ở Nam Trung Bộ để thay thế khuôn đúc truyền thống hay chuyển đổi quy trình từ nấu lò đứng sang lò nằm, nồi gang sang nồi sắt, cải tiến cách lấy lõi khuôn đúc để đúc được nhiều lần trên cùng một khuôn, thì các quy trình còn lại hầu như đều làm bằng tay.
Các quy trình được làm bằng tay bao gồm: Từ động tác sú đất, nặn khuôn, giáp khuôn, chèn khuôn, bố khuôn để đưa vào lò, cho đến công việc nung khuôn - pha chế hợp kim - nấu chảy nguyên liệu rồi ra cơi, rót khuôn, làm nguội, đánh bóng, nhuộm sản phẩm [13]. Đó chính là một quá trình đòi hỏi không chỉ lao lực mà còn thử thách trí tuệ và tài năng của người thợ. Sản phẩm hoàn hảo không chỉ mang ý nghĩa lành lặn và giống như đúc với bản mẫu về mặt ngoại hình mà còn phải đáp ứng một số tiêu chuẩn về chất lượng khác.
Ngoài các sản phẩm truyền thống đặc trưng (đồ thờ cúng) như: lư đồng, bát hương, tam sự, ngũ sự, chuông, cồng, chiêng…Các sản phẩm lưu niệm tinh xảo bằng đồng cũng được sản xuất phục vụ người yêu văn hóa trưng bày và khách du lịch như: tượng danh nhân, trống đồng, bình hoa, các biểu tượng văn hóa tiêu biểu của Huế và đất nước. Nổi bật nhất là những tác phẩm nổi tiếng mang đậm tính nghệ thuật, sống mãi với thời gian của lớp hậu duệ sau này như:
Tượng Trần Hưng Đạo cao 10,2m, nặng 21,6 tấn đặt tại công viên Vị Hoàng (Thành phố Nam Định), tượng Như Lai cao 4,3m đặt tại chùa Kim Thành- Plây Cu (Gia Lai), tượng Bác Hồ đặt tại làng Kim Liên (Nghệ An) và thành phố Huế,
43
tượng Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại An Giang, tác phẩm Trống đồng đặt tại Bảo tàng Quang Trung (Bình Định)...[13]
Đặc biệt trong dịp Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội vào năm 2010, nghệ nhân Nguyễn Văn Sính với biệt tài đúc chuông và các học trò của ông đã lập kỷ lục trong nghề đúc đồng từ xưa đến nay ở Việt Nam, khi đúc thành công quả chuông Đại Hồng Chung có kích thước khổng lồ cao 5,5m, đường kính 3,7m, nặng hơn 30 tấn, được xem là quả chuông lớn nhất Đông - Nam Á. Trong vòng tám tháng, ông đã huy động hơn 60 thợ đúc, nấu và rót liên tục tám nồi đồng (mỗi nồi 2,5 tấn đồng) trong sáu giờ liên tục, bởi chỉ cần một chút sơ sẩy như bị tràn hoặc xì ra ngoài khuôn đúc thì phải hủy bỏ tất cả. Ông Sính cho biết: Khi đúc chuông cần có sự dung hòa giữa tính nghệ sĩ với những tính toán khoa học. Ngoài kinh nghiệm gia truyền, đúc chuông cần phải có cái tâm của người thợ, như thế mới tạo ra những quả chuông có âm thanh hay và có độ ngân vang.
Trải qua hơn 400 năm hình thành và phát triển, làng nghề đúc đồng Huế vẫn tồn tại và phát triển thịnh vượng, tiếng thơm vang xa khắp mọi miền đất nước. Những nghệ nhân Phường Đúc đã biết chắt lọc những bí quyết cổ truyền, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và luôn giữ được cái tâm làm nghề. Nhờ vậy mà những tinh hoa, linh hồn của nghề đúc đồng luôn là một nét đẹp trong văn hóa làng nghề của mảnh đất cố đô.