• Tidak ada hasil yang ditemukan

Làng gốm Phước Tích

Dalam dokumen KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (Halaman 54-58)

CHƯƠNG 2. TÌM HIỂU MỘT SỐ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TIÊU

2.1. Một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Thừa Thiên- Huế

2.1.4. Làng gốm Phước Tích

43

tượng Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại An Giang, tác phẩm Trống đồng đặt tại Bảo tàng Quang Trung (Bình Định)...[13]

Đặc biệt trong dịp Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội vào năm 2010, nghệ nhân Nguyễn Văn Sính với biệt tài đúc chuông và các học trò của ông đã lập kỷ lục trong nghề đúc đồng từ xưa đến nay ở Việt Nam, khi đúc thành công quả chuông Đại Hồng Chung có kích thước khổng lồ cao 5,5m, đường kính 3,7m, nặng hơn 30 tấn, được xem là quả chuông lớn nhất Đông - Nam Á. Trong vòng tám tháng, ông đã huy động hơn 60 thợ đúc, nấu và rót liên tục tám nồi đồng (mỗi nồi 2,5 tấn đồng) trong sáu giờ liên tục, bởi chỉ cần một chút sơ sẩy như bị tràn hoặc xì ra ngoài khuôn đúc thì phải hủy bỏ tất cả. Ông Sính cho biết: Khi đúc chuông cần có sự dung hòa giữa tính nghệ sĩ với những tính toán khoa học. Ngoài kinh nghiệm gia truyền, đúc chuông cần phải có cái tâm của người thợ, như thế mới tạo ra những quả chuông có âm thanh hay và có độ ngân vang.

Trải qua hơn 400 năm hình thành và phát triển, làng nghề đúc đồng Huế vẫn tồn tại và phát triển thịnh vượng, tiếng thơm vang xa khắp mọi miền đất nước. Những nghệ nhân Phường Đúc đã biết chắt lọc những bí quyết cổ truyền, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và luôn giữ được cái tâm làm nghề. Nhờ vậy mà những tinh hoa, linh hồn của nghề đúc đồng luôn là một nét đẹp trong văn hóa làng nghề của mảnh đất cố đô.

44

vừa đồ sộ. Trong tổng số 117 nóc nhà của làng, hiện còn tới 27 ngôi nhà cổ, đa số là nhà rường 3 gian hai chái và 10 nhà thờ họ cổ. Trong đó có 12 nhà rường của các gia đình được xếp vào loại có giá trị đặc biệt. Điều lý thú là các ngôi nhà rường cổ ở Phước Tích liên kết với nhau, chỉ cách nhau một khu vườn rộng với những hàng chè tàu xanh, thẳng. Cấu trúc và tổ chức không gian làng Phước Tích là điển hình cho mô hình cư trú nơi thôn quê của người Việt ở vùng Bắc Trung Bộ. Đó là cấu trúc mở với những căn nhà trong vườn, nhà vườn. Ở Phước Tích, quỹ kiến trúc cổ và cũ, song cảnh quan và vườn được bao quanh thì lại rất trẻ và tràn đầy sức sống.

Thời trước, ở làng Phước Tích, cả làng có 12 lò suốt ngày đêm đỏ lửa nung, cho ra những sản phẩm gốm bền bỉ và bắt mắt. Sau đó được vận chuyển bằng thuyền từ bến sông Ô Lâu đưa đi bán ở các tỉnh lân cận như Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi... và lan tỏa khắp cả nước. Đặc biệt, làng gốm cổ Phước Tích là nơi sản xuất những chiếc om nấu cơm cho vua ngày xưa. Người thời trước còn có câu thơ gắn với hình ảnh những chiếc om làng Phước Tích:

“Om Phước Tích ngon cơm hoàng đế/ Sen Hà Trì quý thế Phú Xuân”. Những kiểu sản phẩm gốm thời xưa cho tới nay vẫn được nhiều người già trong làng lưu lại như trách, chậu, om, niêu, âm, tộ, cối tiêu, bình vôi, chum, ghè,...[30]

Suốt mấy trăm năm tồn tại, nghề gốm đã gắn kết chặt chẽ với cư dân trong làng và trở thành thương hiệu vang tiếng. Nhưng khoảng 1989, nghề gốm ở làng Phước Tích bắt đầu xuống dốc, và đến 1995 thì lò gốm cuối cùng cũng tắt lửa. Con cháu trong làng phần lớn chọn con đường lập nghiệp phương xa, chỉ còn lại những cụ già và một vài thanh niên làm nghề thủ công, việc vực dậy làng nghề truyền thống ngày càng trở nên khó khăn. Tuy nhiên, làng gốm Phước Tích đã có cơ hội chuyển mình, vực dậy, năm 2007 gốm Phước Tích được đưa vào trưng bày tại Festival Nghề truyền thống Huế và nhận được sự chú ý từ đông đảo khách tham quan và các chuyên gia ngành gốm [30]. Nhờ đó, sau 20 năm tắt lửa, lụi nghề, ngày nay lò gốm Phước Tích đỏ lửa trở lại trong niềm vui của các nghệ nhân và người dân trong làng. Cùng vốn quý nhà cổ, việc phục hồi nghề gốm truyền thống đã khiến Phước Tích được biết đến không chỉ là một làng cổ mà còn là một làng nghề gốm truyền thống của tỉnh Thừa Thiên – Huế.

2.1.4.2. Đặc điểm sản phẩm của làng nghề

Đôi tay của người thợ Phước Tích cho ra đời nhiều sản phẩm từ hàng trăm năm nay có mặt trong mọi gia đình Huế dưới dạng các loại đồ đựng như: lu,

45

hông, ảng, hủ, độc, trình, thống... Cùng với làng gốm truyền thống như: gốm Bát Tràng, gốm Chu Đậu hay gốm Phù Lãng, gốm ở Phước Tích nổi tiếng bởi độ bền, bóng mịn và tinh xảo. Tất cả các sản phẩm gốm đều được làm bằng tay, và đun bằng củi trong các lò sấp, hay tiện lợi hơn, ngày nay người thợ còn sử dụng lò gas.

Nghề gốm trên đất Việt Nam thì có nhiều, nhưng gốm Phước Tích luôn mang một vị trí riêng của mình. Đó là bởi, gốm Phước Tích có nguồn nguyên liệu khác lạ, chất liệu chính của sản phẩm gốm Phước Tích được khai thác ở vùng Diên Khánh (Quảng Trị) là đất sét. Đất sau khi được nung lên dù không tráng men vẫn không bị thẩm thấu, dùng làm vật dụng để nấu ăn rất ngon. Thế nên không phải ngẫu nhiên mà xưa kia, triều đình giao cho làng Phước Tích trách nhiệm phải sản xuất “om ngự” để dùng nấu cơm cho vua ngự thiện. Màu sắc của đất làm gốm Phước Tích cũng là màu sắc tự nhiên, không cần pha chế, nên vô cùng độc đáo [1].

Đất sau khi lấy về, được cho vào bể đánh tơi ra với nước rồi lọc, lắng, đem phơi khô như kiểu người ta vẫn thường làm bột sắn dây, bột hoàng tinh vậy. Sau đó mới được nhào và nặn hình sản phẩm. Người thợ thường gọi đất sét là các loại kẻ được chia thành nhiều loại: kẻ tốt, kẻ màu. Trong quy trình sản xuất gốm, kẻ tốt được dùng để sản xuất những sản phẩm có thành mỏng, hình khối lớn, kẻ màu dùng làm những đồ vật không yêu cầu về mặt ngoại hình. Đất sẽ được luyện kỹ vừa, có độ dẻo, sau đó đất được nặn thành dây dài to bằng cổ tay, người thợ chuốt ngắt từng đoạn, khoanh trũng giữa bàn xoay, chân phải đạp bàn, hai tay chuốt. Mọi sản phẩm to, nhỏ, dày, mỏng đều do hai bàn tay điều khiển, không có khuôn mẫu nhất định, kích thước từng cỡ do mực mắt, có sai lệch nhưng không đáng kể.

Ở công đoạn tạo hình sản phẩm, có hai cách thức là tạo hình bằng bàn xoay hoặc đổ khuôn. Tạo hình bằng bàn xoay thì thường dùng để sản xuất những sản phẩm gốm có kích thước lớn như: Chum, lọ, bình, âu… Còn tạo hình thông qua việc đổ khuôn thì kỹ thuật này đang được sử dụng phổ biến, vì có thể sản xuất hàng loạt, cho năng suất cao. Việc tạo hình sản phẩm theo khuôn in gồm các khâu đặt khuôn giữa bàn xoay, ghim chặt lại, láng lòng khuôn rồi ném mạnh đất in sản phẩm giữa lòng khuôn cho bám chắc chân, quay bàn xoay và kéo cán tới mức cần thiết để tạo sản phẩm.

46

Các sản phẩm gốm, sau khi qua các công đoạn làm đất, tạo hình, sẽ được đem phơi khô, để sản phẩm khô, không bị sứt mẻ, không làm thay đổi hình dạng của sản phẩm. Sau khi gốm được phơi khô, khi nào đất se cứng thì tiến hành sửa, gọt, cạo nhẵn…theo đúng ý muốn. Các chi tiết khác như: quai, tai hoặc trang trí các hình động vật nổi, hoa lá… tất cả đều được thực hiện ở giai đoạn này. Khắc vạch là phương pháp trang trí hoa văn chủ yếu. Một số sản phẩm gốm có hoa văn khắc chìm vào xương gốm được thực hiện bằng phương pháp in khuôn. Các sản phẩm gốm men ngọc và gốm men hoa nâu, sẽ được vẽ bằng bút lông vẽ màu để trang trí các loại hoa văn để tăng tính nghệ thuật cho sản phẩm.

Sản phẩm mộc sau khi trang trí, phải được làm sạch bụi bằng chổi lông.

Những sản phẩm mà xương gốm có màu trước khi tráng men phải có một lớp men lót để che bớt màu của xương gốm, đồng thời cũng phải tính toán tính năng của mỗi loại men định tráng lên từng loại xương gốm, nồng độ men, thời tiết và mức độ khó của xương gốm. Kĩ thuật tráng men có nhiều hình thức như phun men, dội men lên bề mặt cốt gốm cỡ lớn, nhúng men đối với loại gốm nhỏ nhưng thông dụng nhất là hình thức láng men ngoài sản phẩm. Đây là những thủ pháp tráng men của thợ gốm Phước Tích, vừa là kĩ thuật vừa là nghệ thuật, được bảo tồn qua nhiều thế hệ, thậm chí đã từng là bí quyết trong nghề nghiệp ở đây.

Tiếp đó, người thợ gốm tiến hành tu chỉnh lại sản phẩm lần cuối trước khi đưa vào lò nung. Trước hết phải xem kĩ từng sản phẩm một xem có chỗ nào khuyết men thì phải bôi quệt men vào các vị trí ấy. Sau đó họ tiến hành cắt dò, tức cạo bỏ những chỗ dư thừa men, công việc này gọi là sửa hàng men.

Và công đoạn cuối cùng, quyết định sự thành bại của một mẻ gốm chính là nung gốm. Bây giờ, người thợ trong làng thường sử dụng lò gas để nung gốm, thời gian nung gốm được rút ngắn chỉ mất khoảng 24 giờ. Tuỳ theo mỗi loại lò và mỗi dạng gốm cụ thể mà thời gian nung và nhiệt độ nung cũng khác nhau:

Gốm đất nung ở nhiệt độ từ 6000C – 9000 C, gốm sành nâu từ 11000 C – 12000C, gốm sành trắng từ 12500C -12800C và đồ sứ từ 12800C– 1350 0C [1].

Việc hoàn thành một sản phẩm gốm khá vất vả và kỳ công, vì vậy mà số lượng những người thợ sống bám nghề, theo đuổi với nghề tại làng hiện nay vẫn còn là con số khá khiêm tốn. Hy vọng trong tương lai, với sự đầu tư đúng mực, làng gốm Phước Tích sẽ vươn lên phát triển mạnh mẽ, cho ra lò nhiều sản phẩm gốm mang nét truyền thống, độc đáo riêng biệt.

47

2.2. Thực trạng khai thác tại các làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh

Dalam dokumen KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (Halaman 54-58)

Dokumen terkait