CHƯƠNG 2. TÌM HIỂU MỘT SỐ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TIÊU
2.1. Một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Thừa Thiên- Huế
2.1.2. Làng nón lá Thủy Thanh
37
được dịch bệnh, phát triển đầy đàn; tranh có hình các linh thú như voi, cọp để dâng cúng nơi các miếu nhằm tỏ lòng thành kính của con người với các loài mãnh thú và cầu mong các mãnh thú này không giáng họa cho người.
Tranh đồ vật: Là những bức tranh in hình các loại áo quần; khí dụng; cung tên;… hoặc các loại tế phẩm như áo ông, áo bà, áo binh có in hoa văn trang trí.
Ngày nay, với nhu cầu hiện đại, ngoài dòng tranh thờ cúng người ta cũng rất quan tâm đến tranh trang trí, treo tường. Tranh làng Sình giờ đã có thêm các nội dung khác ngoài thờ cúng, những bức tranh trang trí thuộc đề tài dân gian và tranh bát âm ra đời đã làm phong phú thêm cho tranh làng Sình. Dòng sản phẩm này rất được khách du lịch ưa chuộng. Đó có thể là hội vật với các thế vật ngồi, nằm, đứng; hay các trò chơi kéo co nam, nữ, bịt mắt bắt dê…; rồi hình ảnh bát âm gồm nhị, nguyệt, trống, sáo, đàn bầu, tỳ bà, đàn tranh.
Mặc dù, trong đời sống tâm linh của người dân xứ Huế, tranh Sình vẫn có mặt như một phần không thể thiếu, nhưng cái cốt cách xa xưa của một thời thịnh vượng dường như đã không còn nữa. Cùng với sự xuất hiện rất nhiều thứ tranh tượng mới, của các đồ cúng đồ thờ cao cấp Trung Hoa, khiến dòng tranh ngày thêm mai một. Thêm vào đó tính chất nhất thời của các bức tranh làm ra chỉ để hóa mã chứ không phải để treo như lối chơi tranh Tết của Đông Hồ, Hàng Trống, nên càng ngày các nguyên vật liệu làm tranh rẻ càng được ưa chuộng hơn. Điều đó, khiến cho tranh làng Sình đã không còn giữ được cái phong vị vốn có một thời. Vì vậy muốn bảo tồn và phát huy hết giá trị của tranh dân gian làng Sình như một nét đẹp lâu đời của vùng đất kinh kỳ này, làng tranh Sình cần sự quan tâm nhiều hơn từ chính quyền địa phương, cũng cần lắm những người tâm huyết với nghề như nghệ nhân Kỳ Hữu Phước.
38
lại tại khu vực làng Thanh Thủy Chánh bây giờ để dựng làng và đặt tên làng là Thanh Toàn. Đến thời Vua Thiệu Trị (1841- 1847), tên Thanh Toàn được đổi thành Thành Thủy. Sau đó, làng được đặt tên chính thức là Thanh Thủy Chánh nhưng người dân nơi đây vẫn quen gọi là Thanh Toàn [29].
Cùng với bước chân Nam tiến, những người dân gốc Thanh Hóa đã mang vào giải đất miền Trung những phong tục tập quán truyền thống đặc sắc, cũng như nền tảng văn hóa của người Kinh. Dần dần, tại ngôi làng nhỏ Thanh Thủy Chánh đã hình thành nên một cộng đồng người Việt với nghề thủ công truyền thống cũng được coi là nghề chính của người dân trong làng, chính là nghề làm nón lá, ra đời cách ngày năm khoảng 500 năm.
2.1.2.2. Đặc điểm sản phẩm của làng nghề
Làng nón lá Thủy Thanh hiện có khoảng 3.000 hộ dân, sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Những lúc nông nhàn, người dân địa phương còn làm thêm các nghề phụ như chằm nón, làm bánh, rèn các đồ nông cụ…
Thoạt trông, chiếc nón lá Huế có vẻ đơn giản như bao chiếc nón khác.
Tuy nhiên, để làm được một chiếc nón vừa đẹp vừa nhẹ, vừa bền là cả một nghệ thuật đầy công phu của những người thợ. Ở mỗi công đoạn đều có sự chuyên môn hóa cao, từ khâu khai thác vật liệu, gia công lá nón, thiết kế khung, làm vành, sáng tác hoa văn đến khâu nón. Có rất nhiều du khách khi đến Huế tham quan, lúc về đã không quên mang theo những chiến nón Huế làm quà cho người thân và bè bạn. Nguyên liệu để sản xuất nón lá Huế là cây lá nón, được trồng ở huyện A Lưới và huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Đây là vùng có lượng mưa lớn, độ ẩm cao nên phù hợp với sự phát triển của cây lá nón. Lá nón được sử dụng là lá không quá non cũng không quá già – lá thường đang còn búp vừa đủ một tháng tuổi và phát triển hết chiều dài, chiều ngang, chưa chuyển sang màu xanh đậm, các bẹ lá ôm khít với nhau, chưa bung ra, có độ mềm với chiều dài khoảng 40-50cm [12].
Sau khi thợ sơn tràng đưa lá về, lá được tuyển sơ để chuyển sang sấy. Lá nón sấy đạt yêu cầu phải thỏa các điều kiện là lá chính đều, khô vừa, giữ được sắc xanh nhẹ, chưa hoàn toàn ngả sang màu trắng vàng. Đây là công việc vất vả và khá quan trọng, quyết định đến chất lượng của chiếc nón được tạo ra. Sau khi sấy xong, người thợ sẽ đem lá về rãi sương (giữ độ ẩm), ủi và lựa lá. Họ rất thạo trong việc chọn lá đực, lá cái, mặt phải, mặt trái, cắt và rọc sống. Hai mươi chiếc lá đực được xây đầu tiên sẽ nằm ở mặt trong. Tiếp đến là hình hoa văn, bài thơ
39
phủ kín diện tích xung quanh chiếc nón. Lá cái là lớp được xây ở ngoài cùng. Ở công đoạn này động tác phải nhẹ nhàng khéo léo, chèn kỹ, đẹp và dằn chắc chắn, giữ cho mặt lá phẳng không xê dịch.
Để làm được một chiếc nón Huế, người thợ phải thực hiện rất nhiều công đoạn. Toàn bộ qui trình chủ yếu có 3 nhóm việc chính: Chuẩn bị khung vành nón, xử lý lá nón, khâu và hoàn thiện nón. Trước hết là khâu tạo khung và vành nón. Đây là công việc đòi hỏi người thợ có nhiều kinh nghiệm, cẩn thận và khéo tay. Chiếc khung nón bao gồm 16 thanh gỗ vát mảnh được làm từ thân cây lồ ô ghép lại, khớp nhau ở đỉnh, phía dưới khoảng cách đều nhau, toàn bộ mặt khung hình khum nhẹ. Tùy thuộc vào thợ làm nón đặt loại khung nào thì người thợ sẽ làm loại khung đó. Bộ khung vành quyết định chủ yếu dáng vẻ chiếc nón. Có người đã nhận xét: “Nón Huế nhẹ, mềm mỏng, trước hết ở cốt cách của bộ vành.
16 vành như 16 vầng trăng được ve thật nhanh, thật tròn, thật nhẵn, thật điệu, sao cho không gợn chút méo mó ngay cả ở chỗ mắt cây”.
Khâu (chằm) nón là công đoạn quyết định đến sự hình thành và vẻ đẹp của cả chiếc nón. Người thợ sẽ khâu từ trên xuống đến vành 15, cứ 1 cm 3 mũi cước trong suốt. Vành cuối cùng khâu cước trắng, 2 mũi kim cách nhau 2 cm.
Khi xây và lợp lá phải thật khéo, nhất là khâu sử dụng lá chêm, tránh việc chồng nhau nhiều lớp để sao cho nón thanh và mỏng, mũi chỉ chằm phải sát để kẽ lá ôm khít lấy nhau. Đường chằm phải mềm mại, thanh nhẹ, dịu dàng. Bàn tay khéo léo của những nghệ nhân làng nón đã làm được điều đó bằng tài năng và sự khổ luyện của mình, có khi phải chong đèn thâu đêm suốt sáng, miệt mài như không biết mỏi là gì. Khâu xong nón, người thợ chỉ còn việc đánh quai, chải dầu. Lớp dầu bóng bằng nhựa thông pha cồn làm cho nón thêm sáng, đẹp và chống thấm nước. Từ đây, chiếc nón bắt đầu cuộc hành trình của mình đến với người tiêu dùng gần xa.
Về mặt hình dáng và công dụng, nón bài thơ xứ Huế của làng Thanh Thủy Chánh cũng giống như nón cùng loại của một số địa phương khác trên cả nước.
Tuy nhiên, nét đặc thù mang đậm dấu ấn phong cách Huế ở đây chính là dáng nón thanh tao mềm mại, màu trắng sáng xanh mát dịu của lá và những hình hoa văn được tạo rất khéo, bố cục cân đối nằm giữa 2 lớp lá, chỉ khi soi ra trước ánh sáng mới có thể nhận thấy được vẻ đẹp đầy thi vị của nó. Ở Huế, chiếc nón không chỉ để che nắng mưa mà còn là một loại phục trang kết hợp cùng tà áo dài
40
màu tím đặc trưng, càng làm cho vẻ đẹp của người phụ nữ thêm uyển chuyển và mềm mại trên từng bước chân thong thả, dịu dàng.
Có thể nói, nghề làm nón ở Huế xuất phát từ nhu cầu của đời sống dân gian. Nón vừa là vật dụng khá tiện lợi, phù hợp với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, giá lại rẻ, vì vậy, nón Huế rất được ưa chuộng. Nón Huế xuất hiện ở mọi nơi và ai cũng có thể đội nón Huế, từ cụ già đến em bé, hướng dẫn viên và cả những du khách nước ngoài,... Nón lá là sản phẩm thủ công mỹ nghệ đầu tiên được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp chứng nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lý vào tháng 8/2010 [28]. Đây chính là cơ sở để nghề làm nón ở tỉnh Thừa Thiên - Huế nói chung và ở làng nghề nón lá Thủy Thanh nói riêng ngày càng gia tăng sản lượng các sản phẩm nón, đi cùng với đó là chất lượng các sản phẩm nón lá luôn được đặt lên hàng đầu, để giữ vững thương hiệu riêng của nón Huế.