• Tidak ada hasil yang ditemukan

Chương 1 TỔNG QUAN

1.4. Dinh dưỡng trong dung dịch thủy canh và nhu cầu dinh dưỡng của cây rau

1.4.4. Nhu cầu dinh dưỡng của cây rau cần nước

Theo Đường Hồng Dật (2002), rau cần nước thuộc nhóm hút ít NPK. Kết quả nghiên cứu của Đỗ Huy Bích và ctv (2006) cho thấy rau cần nước thường được trồng ở ruộng ngập nước có nhiều bùn. Lớp bùn càng sâu càng màu mỡ, cây càng sinh trưởng mạnh. Trồng vào ao bùn, chỉ cần sục bùn, gạt phẳng, không cần bón phân.

Nếu trồng trên ruộng thì bón lót 13-19 tạ phân chuồng hoai cho 1.000 m2. Khi cây cao 15-20 cm, bón thúc 100 kg đạm + 100 kg kali cho một ha. Sau đó cho nước vào ruộng, để mực nước cao khoảng 5-7 cm. Khi cây cao 30-35 cm, bón thúc lần 2 và bón thúc lần ba khi cây cao 50-65 cm với liều lượng như lần thứ nhất.

Bảng 1.4. Loại phân bón được các nông hộ trồng rau cần nước sử dụng ở Đồng Nai và Bạc Liêu

Loại phân Số hộ sử dụng Tỉ lệ (%)

Đồng Nai Bạc Liêu Đồng Nai Bạc Liêu

Urea 40 100

DAP 36 90

Super lân 8 20

NPK 16 - 16 – 8 40 100

NPK 20 – 20 - 15 31 39 77,5 95,1

NPK 17 - 12- 7 24 60

NPK 20-20-15 và Urea 2 4,9

(Nguồn: Nguyễn Hoàng Mỹ, 2014 và Phạm Thị Minh Tâm và ctv, 2015b)

Kết quả điều tra ở Bảng 1.4 cho thấy các nông hộ đều sử dụng phân vô cơ để bón cho rau. Tại Đồng Nai, các hộ sử dụng nhiều loại phân bón trong đó urea là loại phân được sử dụng nhiều nhất và phổ biến nhất, các loại phân NPK cũng được các hộ sử dụng nhiều, trong đó NPK (16-16-8) được số hộ sử dụng nhiều nhất có 100%.

Phân super lân có 20% số hộ sử dụng. Ngoài ra các nông hộ còn sử dụng các loại phân tổng hợp, trong đó phân DAP được 36 hộ sử dụng (chiếm 90%), NPK (20-20- 15) được 31 hộ sử dụng (chiếm 77,5 %), NPK (17-12-7) được 24 hộ sử dụng (chiếm 60%). Tại Bạc Liêu, chủ yếu sử dụng phân NPK (20-20-15) có 95,1%; một số ít hộ sử dụng kết hợp cả NPK và Urea (4,9%) (Nguyễn Hoàng Mỹ, 2014, Phạm Thị Minh Tâm và ctv, 2015b).

Theo kết quả khảo sát về phân bón trên rau cần nước được trồng trên ruộng ở xã Gia Kiệm, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai của Nguyễn Hoàng Mỹ (2014), lượng phân urea bón cho cây rau cần nước dao động từ 10 đến <15 kg/1.000 m2 với 57,5 % số hộ sử dụng, lượng urê bón từ 15 đến 20 kg/1.000 m2 có 42,5 % số hộ sử dụng. Phân super lân được bón từ 20 đến 25 kg/1.000 m2 có 20,0 % số hộ sử dụng.

Phân DAP được bón từ 7 đến 15 kg/1.000 m2 có 22,7% số hộ sử dụng. Phân bón lá các loại được sử dụng với lượng < 1kg/1.000 m2 có 100% số hộ sử dụng.

Cũng theo kết quả điều tra của Phạm Thị Minh Tâm và ctv (2015b), phân bón cho cây rau cần nước được trồng ở Bạc Liêu được nông dân sử dụng nhiều (Bảng 1.5).

Qua kết quả ở Bảng 1.5 cho thấy nông dân vùng trồng rau cần nước chưa có tập quán bón phân hữu cơ. Qua điều tra cho thấy 100% nông dân không dùng phân hữu cơ khi canh tác rau mà sử dụng 100% phân hóa học đã được trình bày ở Bảng 1.4.

Khi chỉ sử dụng toàn bộ phân hóa học để canh tác trong thời gian dài sẽ dẫn đến đất bị chai, ảnh hưởng đến chất lượng đất. Vì vậy, cần khuyến khích nông dân thay đổi tập quán sử dụng phân, cần sử dụng phân hữu cơ trong quá trình canh tác rau cần nước để hướng tới canh tác bền vững. Lượng phân đạm, lân và kali được bón ở mức trung bình chiếm tỷ lệ phổ biến là 68,9%, 67,6% và 64,4% theo thứ tự tương ứng.

Tuy nhiên, cả ba loại phân này vẫn còn được bón với lượng từ cao đến rất cao chiếm tỷ lệ khá cao (28,8%, 28,8% và 35,4% theo thứ tự tương ứng). Nhìn chung, nông dân bón phân hóa học với số lượng trung bình cho tất cả các loại dinh dưỡng đa lượng.

Số lần bón phân chủ yếu từ 3-5 lần/vụ.

Bảng 1.5. Lượng phân và số lần bón phân/vụ cho rau cần nước tại hai điểm điều tra

Chỉ tiêu

Xã Vĩnh Thanh Xã Vĩnh Phú Đông Số hộ

điều tra

Tỷ lệ hộ

bón (%) Số hộ

điều tra Tỷ lệ hộ bón (%)

Lượng N (kg/1000m2/vụ)

≤ 16 (thấp) 0 0,0 1 2,2

> 16 - 44 (trung bình) 22 48,9 9 20,0

> 44 - 71 (cao) 7 15,6 2 4,4

> 71 (rất cao) 2 4,4 2 4,4

Lượng P2O5

(kg/1000m2/vụ)

≤ 16 (thấp) 1 2,2 1 2,2

> 16 - 44 (trung bình) 21 47,6 9 20,0

> 44 - 71 (cao) 7 15,6 2 4,4

> 71 (rất cao) 2 4,4 2 4,4

Lượng K2O (kg/1000m2/vụ)

≤ 11 (thấp) 0 0,0 0 0,0

> 11 - 32 (trung bình) 19 42,2 10 22,2

> 32 - 53 (cao) 10 22,2 2 4,4

> 53 (rất cao) 2 4,4 2 4,4

Số lần bón

(lần/vụ) ≤ 3 8 17,8 2 2,2

> 3 - ≤ 5 19 42,2 12 26,7

> 5 - ≤ 7 3 6,7 0 0,0

> 7 1 2,2 0 0,0

(Nguồn: Phạm Thị Minh Tâm và ctv, 2015b) Phạm Thị Minh Tâm và ctv (2015a) đã thực hiện nghiên cứu tại Bạc Liêu về lượng phân hữu cơ vi sinh (0, 500, 1.000 kg/1.000 m2) và lượng đạm bón (23; 30,6 và 38,4 kg/1.000 m2) cho cây rau cần nước trong 2 vụ. Kết quả nghiên cứu cho thấy với 1.000 m2 rau cần nước được bón với lượng phân 500 kg phân hữu cơ vi sinh kết hợp với bón 50 kg NPK 20-20-15; 28,3 kg phân urê; 62,5 kg super lân; 7,5 kg phân kaliclorua và 62,5 mL Amino Fit.XtraTM cho chiều cao bụi cây cao nhất là 36,7 cm (vụ 1) và 48,6 cm (vụ 2), đường kính thân là 7,5 mm (vụ 1) và 7,4 mm (vụ 2). Năng suất thương phẩm 5,2 tấn/ 1.000 m2 (vụ 1) và 6,5 tấn/ 1.000 m2 (vụ 2), hiệu quả kinh tế đạt cao nhất, độ cứng cây đạt 3,22 (N/cm2) và độ trắng cây (68,06) của cây rau cần nước tốt nhất khi được bón với lượng phân trên. Bệnh lá tím không xảy ra. Dư lượng nitrat nhỏ hơn 1.000 mg/ kg rau tươi.

Tóm lại: Hiện nay có nhiều dung dịch dinh dưỡng thủy canh được áp dụng cho nhiều loại cây trồng khác nhau. Các dung dịch dinh dưỡng Hoagland và Arnon, Faulkner hay Jones thường được áp dụng cho rau ăn lá thủy canh. Cũng có một vài nghiên cứu về phân bón cho cây rau cần nước trồng ngoài đồng. Tuy nhiên, ngoài dung dịch dinh dưỡng dành cho cây cải xoong thủy canh thì chưa có dung dịch dinh dưỡng cho cây rau cần nước thủy canh. Vì vậy các nghiên cứu về dung dịch thủy canh cây rau cần nước và nồng độ đạm, lân và kali thích hợp cho cây rau cần nước thủy canh là cần thiết.

1.5. Ảnh hưởng của mật độ và khoảng cách trồng đến sinh trưởng và năng suất