KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.5. Ảnh hưởng của loại phân hữu cơ đến sinh trưởng và năng suất giống Chùm ngây Ninh Thuận tại tỉnh Đồng Nai
3.5.2. Ảnh hưởng của loại phân hữu cơ đến năng suất giống Chùm ngây Ninh Thuận
3.5.2. Ảnh hưởng của loại phân hữu cơ đến năng suất giống Chùm ngây Ninh
tươi (thân, cành, cuống lá và lá) được thu cách mặt đất 30 cm. Trong trường hợp này, các nghiệm thức phân bón có cùng mật độ trồng, do vậy năng suất SKLT phụ thuộc vào các chỉ tiêu như chiều cao cây, đường kính thân và số lá kép/thân. Nghiệm thức phân bón cho chiều cao cây, số lá kép/cây, đường kính thân cao thì có năng suất SKLT lớn. Điều này giải thích vì sao nghiệm thức phân bón rễ B4, phân bón lá A4 và tổ hợp của chúng cho năng suất SKLT đạt cao nhất trong các nghiệm thức nghiên cứu.
- Năng suất lá lý thuyết (LLT)
Năng suất lá (lá kép) là chỉ tiêu quan trọng đo lường năng suất lá Chùm ngây (phần thu hoạch). Kết quả nghiên cứu cho thấy năng suất LLT của các nghiệm thức thí nghiệm có sự khác biệt về mặt thống kê (P<0,01) ở các lần thu hoạch. Năng suất LLT giảm sau mỗi lần thu hoạch, đặc biệt giảm mạnh ở lần thu hoạch thứ 3 trở đi (chi tiết xem Phụ lục 10).
Trên cùng một nền phân bón lá, các nghiệm thức phân bón rễ khác nhau cho năng suất LLT khác nhau ở độ tin cậy 99% (P<0,01). Giống như năng suất SKLT, năng suất LLT tổng cộng sau 5 lần thu hoạch đạt cao nhất ở nghiệm thức B4 (116,2;
128,4 tấn/ha/năm), thấp nhất là nghiệm thức B5 (57,3; 58,6 tấn/ha), tương ứng trên hai loại đất nghiên cứu (Bảng 3.24).
Ở cùng mức phân bón rễ như nhau, các nghiệm thức phân bón lá cho năng suất LLT khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,01). Trong đó nghiệm thức A4 cho năng suất LLT cao nhất (94,5; 99,2 tấn/ha/năm) (Bảng 3.24).
Có sự tương tác giữa các nghiệm thức phân bón rễ và phân bón lá đến năng suất LLT ở lần thu hoạch thứ 3, 5 và tổng các lần thu trên nền đất xám phù sa cổ (P<0,01). Bón phân B4 kết hợp với phun A4 qua lá cho năng suất LLT cao nhất đạt 136,1 tấn/ha/năm. Nhưng nếu với bón phân qua rễ như vậy mà không bón phân qua lá thì năng suất LLT giảm xuống chỉ còn 99,6 tấn/ha/năm. Đặc biệt, nếu chỉ bón phân qua lá mà không bón phân qua rễ thì năng suất LLT chỉ đạt 50,6 tấn/ha/năm (Bảng 3.24). Kết quả trên được giải thích là do phân B4 ngoài lượng chất hữu cơ cao còn chứa lượng NPK cao hơn các loại phân khác giúp cây sinh trưởng tốt, phát triển tốt hơn.
- Năng suất lá thương phẩm thực thu (LTPTT)
Năng suất LTPTT là chỉ tiêu quan trọng nhất, phản ánh giá trị kinh tế của cây Chùm ngây trồng làm rau. Kết quả nghiên cứu cho thấy phân bón rễ khác nhau cho năng suất LTPTT giống Chùm ngây Ninh Thuận khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05; P<0,01) ở tất cả các lần thu hoạch và trên hai loại đất nghiên cứu. Trong đó, nghiệm thức B4 cho năng suất LTPTT tổng cộng đạt cao nhất (51,4; 53,5 tấn/ha/năm), kế đến là nghiệm thức B2 (41,2; 43,6 tấn/ha/năm), thấp nhất là nghiệm thức B5 (24,2;
25,3 tấn/ha/năm), ứng với hai loại đất nghiên cứu.
Chùm ngây có khả năng tạo ra số lượng lá lớn chỉ khi cung cấp đủ dưỡng chất.
Lá Chùm ngây giàu protein và khoáng chất, điều này có nghĩa là đất canh tác phải cung cấp đủ đạm, khoáng chất cho sự sinh trưởng và phát triển của chúng. Theo Price (2007), khi trồng Chùm ngây với mật độ dày (1 triệu cây/ha), yêu cầu phân bón khoảng 250 kg N + 70 kg P2O5 + 280 kg K2O/ha/năm. Theo Phạm Anh Cường (2013), hệ số sử dụng đạm trong phân hữu cơ tối đa là 50%, do vậy để đáp ứng được yêu cầu dinh dưỡng nêu trên thì cần phải bón vào đất canh tác Chùm ngây khoảng 522 kg N - 126 kg P2O5 - 192 kg K2O (khoảng 30 tấn phân bò), 546 kg N - 267 kg P2O5 - 243 kg K2O (khoảng 30 tấn phân gà), 500 kg N - 500 kg P2O5 - 500 kg K2O (khoảng 10 tấn phân Growmore) và 480 kg N - 480 kg P2O5 - 240 kg K2O (khoảng 16 tấn phân Japon)/ha. Dựa vào hàm lượng và thành phần dinh dưỡng của 4 loại phân bón hữu cơ qua rễ và yêu cầu dinh dưỡng của cây Chùm ngây thì phân Growmore đáp ứng yêu cầu dinh dưỡng tốt nhất cho cây Chùm ngây, kế đến là phân gà, Japon và cuối cùng là phân bò. Mặt khác để đạt được năng suất và hiệu quả kinh tế, ngoài lượng phân bón bổ sung còn phụ thuộc vào loại đất trồng. Số liệu phân tích đất tại Bảng 2.1 cho thấy, hàm lượng mùn, đạm và chất khoáng của đất đỏ bazan đạt từ nghèo đến khá; đất xám phù sa cổ đạt từ rất nghèo đến nghèo. Tất cả điều này lý giải vì sao nghiệm thức bón B4 (phân Growmore) cho năng suất LTPTT lớn nhất và năng suất LTPTT của các nghiệm thức phân bón trên nền đất đỏ bazan đều cao hơn trên đất xám phù sa cổ.
Tại hai điểm nghiên cứu, khác với các chỉ tiêu về sinh trưởng, sự ảnh hưởng của các nghiệm thức phân bón lá đến năng suất LTPTT lại có sự khác biệt khá rõ về
mặt thống kê (P<0,01 trên đất xám, P<0,05 trên đất đỏ) ở cả 5 lần thu hoạch. Số liệu Bảng 3.25 cho thấy nghiệm thức A4 cho năng suất LTPTT đạt cao nhất (41,8; 43,0 tấn/ha/năm), thấp nhất là nghiệm thức A5 (31,4; 33,0 tấn/ha/năm), ứng với hai loại đất nghiên cứu. Một điểm đáng chú ý nữa là tỷ lệ % giữa năng suất LTPLT với năng suất LLT, SKLT của nghiệm thức A4 vẫn đạt cao nhất tương ứng (61,2 và 26,3%), các nhiệm thức phân bón lá khác cũng cao hơn nghiệm thức phun nước lã A5 (58,5 và 24,9%). Điều này cho thấy phân bón lá không chỉ làm tăng sinh khối (thân, cành, lá kép) mà còn làm tăng năng suất lá thương phẩm cây Chùm ngây. Sở dĩ như vậy là do phân bón lá làm tăng khả năng sinh trưởng của cây dẫn đến tăng năng suất Chùm ngây. Kết quả này trùng hợp với nhiều nghiên cứu của các tác giả khác bởi phân bón qua lá không chỉ cung cấp các nguyên tố đa lượng, trung lượng mà còn cung cấp các nguyên tố vi lượng và các axít amin giúp cây sinh trưởng tốt, tăng khả năng chống chịu với sâu bệnh hại và tăng chất lượng sản phẩm (Tukey và ctv, 1962; Salinas và ctv, 1986; Fageria và ctv, 2007; Phạm Anh Cường, 2013).
Có sự tương tác giữa phân bón qua rễ và bón lá tới năng suất LTPTT ở độ tin cậy 99% (P<0,01) ở lần thu hoạch thứ 1, 3, tổng của 5 lần thu hoạch trên đất xám phù sa cổ, (P<0,05) ở lần thu hoạch thứ 3 trên đất đỏ bazan. Tác dụng của phân hữu cơ đối với cây trồng thường chậm hơn cho với phân vô cơ, do vậy sử dụng phân bón lá nhằm bổ sung, cung cấp kịp thời các dưỡng chất cho cây thông thường đem lại năng suất và chất lượng rau tốt hơn, hiệu quả tương tác cũng cao hơn.
Kết quả trong nghiên cứu này cho thấy nếu chỉ sử dụng phân hữu cơ để bón cho Chùm ngây qua rễ và lá vẫn có thể đạt được năng suất cao, cao hơn nhiều so với năng suất Chùm ngây của nông dân Đồng Nai (13,6 tấn/ha/năm). Đây là luận cứ quan trọng chứng minh: để đạt được năng suất cao, phẩm chất tốt không nhất thiết phải sử dụng quá nhiều phân bón hoá học, là nguyên nhân làm cho đất trở nên chua, bạc màu, chai cứng, chứa nhiều chất độc hại, ảnh hưởng xấu đến môi trường, giảm chất lượng và giá trị sản phẩm, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người và đây cũng là mục tiêu mà nền nông nghiệp hữu cơ đang hướng tới.
Hình 3.8. Ảnh hưởng của phân hữu cơ bón qua rễ đến năng suất LTPTT giống Chùm ngây Ninh Thuận
Hình 3.9. Ảnh hưởng của phân bón lá đến năng suất LTPTT giống Chùm ngây Ninh Thuận
Vai trò của phân hoá học đối với năng suất cây trồng là không thể phủ nhận, tuy nhiên, tuỳ vào loài cây trồng, mục đích và yêu cầu sản phẩm mà lựa chọn phân bón phù hợp. Đối với các loài rau ăn lá, sản xuất theo hướng hữu cơ thì yêu cầu bắt buộc
0.0 10.0 20.0 30.0 40.0 50.0 60.0
B1 B2 B3 B4 B5
Đất xám Đất đỏ
0.0 5.0 10.0 15.0 20.0 25.0 30.0 35.0 40.0 45.0 50.0
A1 A2 A3 A4 A5
Đất xám Đất đỏ
Năng suất LTPTT (tấn/ha)Năng suất LTPTT (tấn/ha)
phải sử dụng phân bón có nguồn gốc hữu cơ nhằm nâng cao chất lượng, giá trị của sản phẩm, bảo vệ sức khoẻ con người, cải thiện độ phì của đất và bảo vệ môi trường.
Theo John và ctv (2005), vai trò chất hữu cơ chủ yếu được nhấn mạnh ở khía cạnh cải thiện cấu tượng đất, gia tăng độ phì, ngoài ra còn có vai trò phục hồi chức năng của đất bị xói mòn, dẽ chặt, kiềm hóa, sa mạc hóa làm giảm năng suất và đe dọa đến việc sử dụng lâu dài cho mục đích trồng trọt. Sự trộn lẫn phân hữu cơ vào trong đất làm gia tăng khả năng giữ nước của đất, điều đó rất cần thiết cho vùng khô hạn.
Mặt khác, hệ thống hữu cơ chứng minh tính ổn định và sự đàn hồi trong việc phản ứng lại với những sự thay đổi thời tiết đột ngột. Vai trò của phân hữu cơ đối với cây Chùm ngây trong nghiên cứu này đã rõ, vấn đề đặt ra là sử dụng phân hữu cơ với lượng bao nhiêu để có thể đáp ứng và thoả mãn nhu cầu dinh dưỡng, giúp cây trồng sinh trưởng, phát triển tốt, năng suất cao đồng thời đảm bảo được chất lượng sản phẩm Chùm ngây theo tiêu chuẩn hữu cơ là câu hỏi cần tiếp tục cần được làm rõ.