KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tình hình sản xuất Chùm ngây ở Đồng Nai 1. Đất và địa hình trồng Chùm ngây ở Đồng Nai
3.1.4. Một số biện pháp kỹ thuật áp dụng trồng Chùm ngây ở Đồng Nai
Ở Đồng Nai, Chùm ngây là cây mọc hoang dại tại các khu vực có rừng, sau một thời gian dài diện tích có rừng tự nhiên được chuyển đổi thành đất sản xuất nông nghiệp hoặc bán nông nghiệp theo hình thức nông lâm kết hợp. Theo đó, cây Chùm ngây đã được người dân ở các khu vực này trồng khá lâu với mục đích làm trụ tiêu, làm rau ăn lá hoặc làm thuốc chữa bệnh mà không áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác. Ngược lại, tại các vùng đông dân cư, mật độ dân số cao, người dân đã di nhập giống Chùm ngây có xuất xứ từ tỉnh Ninh Thuận, Thái Lan về trồng với mục đích lấy lá và ngọn làm rau có sử dụng một số biện pháp kỹ thuật canh tác, được trình bày trong Bảng 3.2, Bảng 3.3.
Khoảng cách trồng: Đa số người dân (81,7%) không xác định được khoảng cách gieo trồng cụ thể bởi số hộ này trồng Chùm ngây với mục đích làm hàng rào, hoặc làm rau phục vụ gia đình. Có 5,0% hộ trồng với khoảng cách 2 – 3 x 2 – 3 m, 10% trồng với khoảng cách 1 – 2 x 1 – 2 m và 3,3 % trồng với khoảng cách 0,5 – 1 x 0,5 – 1 m và chủ yếu nằm trong số 8,2% hộ trồng với mục đích kinh doanh. So với khuyến cáo của một số tác giả nghiên cứu (Foidl và ctv, 1999; Fuglie, 1999;
Price, 2007; Sanchez, 2006; Amaglo và ctv, 2006 và Nouman, 2012b) thì khoảng
cách trồng Chùm ngây ở Đồng Nai là quá thưa, không phù hợp với mục đích sản xuất rau xanh ăn lá.
Bảng 3.3. Một số biện pháp kỹ thuật trồng Chùm ngây được người dân áp dụng tại tỉnh Đồng Nai
Biện pháp kỹ thuật Kỹ thuật đang áp dụng Tỷ lệ (% số hộ) Thời vụ gieo trồng
Khoảng cách trồng
Làm đất
Kỹ thuật trồng
Trồng xen
Thu hoạch
Thời gian cắt
Trong tháng 4 Trong tháng 5 2 – 3 x 2 – 3 m 1 – 2 x 1 – 2 m 0,5 – 1 x 0,5 – 1 m Không xác định Cày và bừa Cuốc và nhặt cỏ Không làm đất Trồng bằng hạt Trồng bằng cây Trồng bằng cành Sắn
Tiêu
Cây ăn quả
Trồng thuần (không xen) Cắt cành
Bẻ lá Tuốt lá
> 75 ngày/lần
< 75 ngày/lần
31,8 68,2 5,0 10,0
3,3 81,7
8,2 13,2 78,6 18,3 42,5 39,2 7,5 21,7 15,0 55,8 65,0 23,6 11,4 77,6 22,4 Số hộ điều tra: n = 120
Thời vụ trồng: Kết quả điều tra cho thấy thời vụ gieo trồng Chùm ngây ở Đồng Nai tập trung trong tháng 4 (31,8%) và tháng 5 (68,2%). Đây là thời điểm đầu
mùa mưa, đất đủ ẩm, thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của cây Chùm ngây trồng mới.
Kỹ thuật làm đất: Số hộ sử dụng cày bừa làm đất trồng Chùm ngây rất ít (chỉ có 8,2%), đây cũng là số hộ trồng Chùm ngây với mục đích kinh doanh; có 13,2%
số hộ cuốc đất không cày bừa; đặc biệt có tới 78,6% số hộ không làm đất gieo trồng. Như vậy, đa số các hộ trồng Chùm ngây ở Đồng Nai chưa chú ý tới khâu làm đất, kỹ thuật làm đất cũng chưa phù hợp, nhất là đối với đất xám phù sa cổ, loại đất có thành phần cơ giới nhẹ ở tầng mặt do hàm lượng sét rất thấp, khả năng giữ phân, giữ nước kém, nhưng ở tầng dưới đất có tỷ lệ sét cao hơn tầng mặt do được tích tụ ở tầng sâu. Loại đất này nếu được cày sâu sẽ làm tăng độ dày của tầng đất canh tác, tăng tỷ lệ keo sét cho tầng đất mặt, cải thiện tính chất lý, hoá tính của đất.
Kỹ thuật trồng: Kết quả khảo sát cho thấy đa phần người dân trồng Chùm ngây bằng cây con (42,5%), cành hom (39,2%) và hạt (18,3%) (Bảng 3.3). Cây con được gieo ươm trong túi nylon chứa giá thể và chủ yếu trồng với mục đích kinh doanh. Cành hom được cắt từ cây trên 2 năm tuổi, không qua xử lý ra rễ, chủ yếu trồng làm trụ tiêu hoặc hàng rào. Hạt giống được xử lý nảy mầm trước khi gieo trực tiếp ra ruộng. Như vậy, việc sử dụng vật liệu trồng Chùm ngây phụ thuộc chủ yếu vào mục đích trồng, chưa quan tâm đến chất lượng và hiệu quả của vật liệu trồng.
Trồng xen: Cây Chùm ngây ở Đồng Nai đa số trồng thuần (55,8%), có 21,7% trồng xen với cây tiêu, 15,0% trồng xen với cây ăn quả và 7,5% trồng xen với cây sắn (Bảng 3.3). Kết quả điều tra cho thấy việc trồng xen của nông hộ dựa vào kinh nghiệm là chính, chưa chú ý tới hiệu quả trồng xen. Chùm ngây là cây có yêu cầu dinh dưỡng khá cao, khi trồng xen với các cây như tiêu, sắn, cây ăn quả (là cây yêu cầu dinh dưỡng cao) sẽ xảy ra hiện tượng cạnh tranh về dinh dưỡng trong đất, làm đất mất sức sản xuất, giảm năng suất cây trồng chính và cây trồng xen.
Thu hoạch: Chùm ngây được thu hoạch chủ yếu bằng cách cắt cành chiếm 65%, bẻ lá 23,6% và tuốt lá 11,4%. Có 77,6% số hộ thu hoạch với chu kỳ cắt trên 75 ngày/lần, chỉ có 22,4% số hộ cắt với chu kỳ dưới 75 ngày/lần (Bảng 3.3). Số liệu điều tra cho thấy kỹ thuật thu hoạch của người dân tỉnh Đồng Nai chưa thật sự phù
hợp với mục đích canh tác Chùm ngây làm rau. Kết quả nghiên cứu của một số tác giả (Sanchez và ctv, 2006; Nouman, 2012b) cho thấy cây Chùm ngây cho năng suất lá cao khi thực hiện biện pháp thu hoạch bằng phương pháp cắt cành, cho chất lượng lá (dinh dưỡng, dược liệu và chất lượng nấu ăn) tốt nhất khi cắt ở chù kỳ từ 30 – 40 ngày/lần.
Bảng 3.4. Tình hình sử dụng phân bón cho cây Chùm ngây tại các nông hộ ở tỉnh Đồng Nai
Loại phân Mức bón Tỷ lệ hộ áp dụng
(%) Phân chuồng
Đạm Urê
Lân (super lân)
Kali
Phân hỗn hợp NPK (20:20:10)
> 10 tấn/ha/năm 5 – 10 tấn/ha/năm
< 5 tấn/ha/năm Không bón
>500 kg/ha/năm 300 – 500 kg/ha/năm
<300 kg/ha/năm Không bón
>300 kg/ha/năm 150 – 300 kg/ha/năm
<150 kg/ha/năm Không bón
>100 kg/ha/năm 50 – 100 kg/ha/năm
<50 kg/ha/năm Không bón Có bón Không bón
1,7 10,0 17,5 70,8 3,2 4,5 13,2 79,1 0 3,6 7,8 88,6
0 0 4,5 95,5 37,5 62,5 Số hộ điều tra: n = 120
Bón phân: Kết quả Bảng 3.4 cho thấy đa phần người dân ở Đồng Nai (70,8%) không dùng phân chuồng, 79,1% không dùng phân urê, 88,6% không dùng phân lân, 95,5% không dùng phân kali và 62,5% không dùng phân NPK 20:20:10 bón cho Chùm ngây. Sở dĩ như vậy là vì hầu hết các hộ này trồng Chùm ngây với mục đích làm trụ tiêu, hàng rào hay làm rau xanh cho gia đình nên không chú ý tới việc bón phân. Số hộ sử dụng phân chuồng, đạm, lân, kali và NPK hỗn hợp để bón cho Chùm ngây rất ít, tập trung chủ yếu ở các nông hộ vùng đông dân cư, sản xuất hàng hoá. Lượng phân bón như vậy là chưa đủ, chưa cân đối so với nhu cầu dinh dưỡng cây Chùm ngây. Với mục đích sản xuất Chùm ngây như một loại rau cao cấp hoặc cung cấp nguyên liệu cho chế biến dược liệu và thực phẩm chức năng thì ngoài đảm bảo năng suất còn phải chú trọng tới chất lượng của sản phẩm theo tiêu chuẩn hữu cơ và tiêu chuẩn GMP của Bộ Y tế. Để đạt được tiêu chuẩn này, trong quá trình sản xuất không được phép sử dụng phân bón hoá học cũng như các hoá chất bảo vệ thực vật. Đây là thách thức mà nông dân trồng Chùm ngây ở Đồng Nai sẽ phải đối mặt khi vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm được quan tâm được quan tâm hơn bao giờ hết.