CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI NHÀ
3.1. Những căn cứ để đề xuất phương hướng và giải pháp quản lý tài chính tại Nhà
3.1.2 Xu hướng phát triển và yêu cầu hoàn thiện quản lý tài chính tại Nhà khách Tổng
Quá trình phát triển đi lên của Nhà khách Tổng Liên đoàn trong những năm tới đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện công tác quản lý thu, chi. Quản lý thu, chi góp phần tạo ra sự ổn định về kinh tế - xã hội. Phân phối và sử dụng hiệu quả các nguồn lực mở rộng đầu tư để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của các đơn vị sự nghiệp là một trong những mục tiêu chiến lược được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đặt ra cho các đơn vị sự nghiệp có thu thuộc hệ thống.
Về dự báo xu hướng phát triển
Thứ nhất, xây dựng sự phát triển của Nhà khách đặt trong mối quan hệ tổng thể với những đổi mới khác như phát triển thị trường, phát triển các thành phần kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế…
Thứ hai, đổi mới cơ chế hoạt động phải phù hợp với thể chế thị trường và sự chuyển đổi vai trò chức năng của Nhà nước, đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với hoạt động sự nghiệp của đơn vị SNCT.
Thứ ba, phân biệt và xác định rõ: những loại dịch vụ công do Nhà nước phải chịu trách nhiệm cung ứng, dịch vụ công mà Nhà nước hỗ trợ và dịch vụ công có
thể chuyển giao cho thị trường và xã hội.
Thực tế việc triển khai thực hiện cơ chế tự chủ trong khuôn khổ chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước đã tạo ra sự đột phá từ tư duy đến hành động trong việc huy động các nguồn lực xã hội để phát triển hoạt động sự nghiệp, tăng cường phân cấp và mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp được thể hiện ở các mặt:
Một là, hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập được tách bạch rõ (cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công); cơ chế tự chủ đã thúc đẩy cơ quan nhà nước; đơn vị sự nghiệp công lập nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan, đơn vị; từng bước nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước và đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Hai là, tạo quyền chủ động và nâng cao trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong việc sử dụng có hiệu quả biên chế, kinh phí, nguồn thu sự nghiệp để hoàn thành nhiệm vụ được giao, đảm bảo tính công khai minh bạch.
Ba là, thúc đẩy thực hiện tốt chủ trương của Nhà nước về thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí; tạo điều kiện tăng thu nhập hợp pháp cho người lao động, gắn với hiệu suất công tác của từng cán bộ công chức, viên chức; đồng thời tạo thêm nguồn lực thực hiện cải cách tiền lương khu vực hành chính, sự nghiệp. Tạo điều kiện cho cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp tăng thêm thu nhập cho người lao động gắn với chất lượng, hiệu quả công việc. Cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm đã góp phần thúc đẩy các cơ quan sắp xếp lại tổ chức bộ máy, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của đơn vị; tiết kiệm kinh phí, tăng cường cơ sở vật chất, từng bước hiện đại hoá công nghệ quản lý, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức.
Về mục tiêu
Thứ nhất, phát huy tiềm năng trí tuệ, tiềm lực vật chất và tài chính trong nhân dân, huy động và thu hút cho toàn xã hội; tạo điều kiện cho toàn xã hội, các đối tượng chính sách được hưởng thụ các chính sách dịch vụ công ở mức độ ngày càng cao.
Thứ hai, đổi mới phương thức hoạt động và cơ chế tài chính đối với các đơn vị cung ứng dịch vụ công, thúc đẩy áp dụng các kỹ năng quản lý các thành phần kinh tế trong hoạt động cung ứng dịch vụ công; cải thiện đời sống cán bộ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp và xóa bỏ cơ chế độc quyền, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng hoạt động giữa các đơn vị sự nghiệp.
Thứ ba, thúc đẩy sự phát triển sự nghiệp công gắn với ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong việc nâng cao số lượng và chất lượng dịch vụ sự nghiệp trong quá trình phát triển, đáp ứng nhu cầu của xã hội; các đơn vị sự nghiệp công bố trí nguồn kinh phí dành cho ứng dụng khoa học công nghệ và có nhận thức đúng đắn về việc tối đa hóa ứng dụng công nghệ trong các hoạt động đời sống kinh tế xã hội thông qua nâng cao năng suất lao động và chất lượng dịch vụ công.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước trong việc ban hành quy định về tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ sự nghiệp cung cấp cho xã hội; tiêu chuẩn chức danh cán bộ viên chức và người lao động; các quy định hệ thống tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành và chất lượng thực hiện nhiệm vụ được giao; nâng cao hiệu quả sử dụng tổng hợp nguồn lực của Nhà nước và của toàn xã hội trong việc nâng cao số lượng và chất lượng các dịch vụ sự nghiệp công.
Về định hướng.
Những năm qua, quản lý tài chính đối với dịch vụ công đã từng bước đổi mới.
Việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Chính phủ là đi đúng hướng và đạt nhiều kết quả nổi bật. Các cơ quan quản lý Nhà nước đã giảm dần sự can thiệp đối với khu vực sự nghiệp công, tạo điều kiện cho đơn vị SNCT thực hiện việc kiểm soát chi tiêu nội bộ, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người lao động, tạo quyền tự chủ, chủ động cho đơn vị trong việc quản lý chi tiêu tài chính…Những năm gần đây đi đôi với sự phát triển kinh tế xã hội Nhà nước đã ban hành chính sách nhằm đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đồng thời xây dựng các chính sách ưu đãi thu hút các thành phần kinh tế khác tham gia cung cấp dịch vụ công.
Xuất phát từ quan điểm, định hướng của Đảng, Nhà nước và nhiệm vụ công tác cũng như trọng tâm phát triển các hoạt động sự nghiệp đối với các đơn vị sự nghiệp có thu vì vậy phải đổi mới theo hướng sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới phương th
ức quản lý
hoạt động, tăng cường việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế theo yêu cầu nhiệm vụ của các đơn vị sự nghiệp có thu tại Việt Nam gắn với hiệu quả và chất lượng công việc. Đồng thời xây dựng tiêu thức, phương pháp đánh giá kết quả sử dụng kinh phí gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng hoạt động sự nghiệp công lập khi được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm.Thứ hai, chuyển đổi phương thức đầu tư từ NSNN trong cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, từ việc giao dự toán ngân sách cho các đơn vị cung cấp dịch vụ sự nghiệp công lập như hiện nay (thực hiện các nhiệm vụ chính trị, chuyên môn được giao và thực hiện miễn, giảm giá dịch vụ cho các đối tượng hưởng thụ chính sách xã hội) sang phương thức đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh đối với các đơn vị SNCT.
Thứ ba, đa dạng hóa nguồn tài chính nhằm đáp ứng các dịch vụ tốt nhất cho xã hội ở lĩnh vực sự nghiệp có khả năng xã hội hóa cao như sự nghiệp y tế, sự nghiệp giáo dục đào tạo, sự nghiệp văn hóa…theo hướng được quyết định thu giá dịch vụ trên cơ sở giá tính đủ các chi phí cần thiết, được hạch toán đầy đủ chi phí, bảo toàn và phát triển vốn…
Thứ tư, đánh giá lại đầy đủ, chính xác, khoa học, chất lượng nguồn nhân lực ; xây dựng chuẩn trình độ theo chuyên môn quản lý tài chính; Nhà nước có chính sách đào tạo và đào tạo lại thường xuyên các thay đổi chính sách chuyên môn, ngoại ngữ, tin học để thích ứng với hội nhập quốc tế; giáo dục tư tưởng, phẩm chất chính trị đấu tranh chống tiêu cực và giảm bớt số lượng cá nhân không đáp ứng được chuyên môn nghiệp vụ.
Thứ năm, quy định rõ ràng hơn nữa thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý và điều hành đơn vị sự nghiệp; có cơ chế giám sát, kiểm tra việc thực hiện thẩm quyền của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập; hình thành các tổ chức kiểm định và đánh giá độc lập về chất lượng dịch vụ theo ngành, lĩnh vực với sự tham gia của Nhà nước, các nhà chuyên môn và đối tượng hưởng thụ dịch vụ.
Thứ sáu, từng bước rà soát, sửa đổi hệ thống định mức “kinh tế-kĩ thuật” hoặc ban hành bổ sung phù hợp trong từng lĩnh vực sự nghiệp, gắn với quản lý chất lượng, trên cơ sở đó hoàn thiện và từng bước thực hiện cơ chế phân bổ kinh phí, quản lý tài chính gắn với kết quả công việc trong hoạt động sự nghiệp.
Thứ bẩy, tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện các chủ chương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ sự nghiệp; hoàn thiện các công cụ quản lý và vai trò kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước đối với hoạt động cung cấp dịch vụ công nhằm hướng tới việc cung cấp tốt hơn cả về số lượng và chất lượng dịch vụ cho toàn xã hội.
Việc hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở Nhà khách Tổng Liên đoàn thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phải quán triệt các quan điểm sau:
Thứ nhất: Về mặt nhận thức phải thực sự coi việc hoàn thiện công tác quản lý tài chính là một yêu cầu cần thiết trong tiến trình đổi mới quản lý doanh nghiệp trong tiến trình đổi mới quản lý doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập hiện nay.
Thứ hai: Việc hoàn thiện công tác quản lý tài chính doanh nghiệp theo hướng một mặt vừa đảm bảo sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhưng đồng thời phải đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh, quyền tự chủ tài chính của doanh nghiệp.
Thứ ba: Việc hoàn thiện công tác quản lý tài chính phải tạo khả năng tài chính cho các đơn vị hoàn thiện hoàn thành nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước giao cho, đồng thời mở rộng và phát triển đa dạng các dịch vụ đảm bảo cho doanh nghiệp có thu đủ bù đắp các chi phí, từng bước thu hồi vốn và ngày càng nâng cao thu nhập cho cán bộ công nhân viên.
3.1.3. Phương hướng quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp có thu