CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ QUẢN
1.3. Kinh nghiệm quản lý tài chính của một số đơn vị đơn vị sự nghiệp công. 32
1.3.1. Tổng quan kinh nghiệm
1.3.1.1.Kinh nghiệm của TW hội phụ nữ
Trung tâm phụ nữ và phát triển là đơn vị SNCL trực thuộc TW Hội LHPN Việt Nam được thành lập ngày 01/7/2002 theo Quyết định số 220/QĐ-ĐCT ngày 01/7/2002 của Thường trực Đoàn Chủ tịch TW Hội LHPN Việt Nam, với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là: Phục vụ các hoạt động chính trị - xã hội của Hội LHPN Việt Nam theo sự chỉ đạo của Đoàn Chủ tịch TW Hội; Hoạt động của Trung tâm nhằm hỗ trợ sự phát triển toàn diện về năng lực, trình độ mọi mặt, kỹ năng nghề nghiệp, thể lực và thẩm mỹ của phụ nữ Việt Nam và được phép khai thác, cung cấp các dịch vụ phụ trợ để tận thu và hỗ trợ các hoạt động chính trị - xã hội. Trung tâm hội phụ nữ có địa chỉ tại địa điểm 20 thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội.
Cơ sở vật chất của Trung tâm là tổng hợp các khối nhà đa năng, được thiết kế hiện đại đồng bộ, bao gồm: Khu lưu trú khách sạn có 98 phòng nghỉ đạt tiêu chuẩn; Khu ăn uống có diện tích là 1.809 m2 với 04 nhà hàng có thể phục vụ hàng trăm người một lúc; Khu hội nghị, hội thảo có tổng diện tích 1.300 m2 với 01 hội trường lớn có sức chứa gần 500 chỗ ngồi và 04 phòng họp nhỏ từ 40-150 chỗ ngồi thuận lợi cho các lớp tập huấn, hội thi, hội diễn, các cuộc tiếp xúc trao đổi giao lưu với phụ nữ trong nước và trong khu vực cũng như trên thế giới; Khu tư vấn đào tạo nghề, giới thiệu việc làm có tổng diện tích là 2.326 m2 gồm 10 phòng học; Khu tư vấn cho phụ nữ và khu trưng bầy và giới thiệu sản phẩm với diện tích 360 m2. Ngoài ra, để nâng cao sự phát triển toàn diện về năng lực, trình độ mọi mặt kỹ năng nghề nghiệp thể lực và thẩm mỹ của phụ nữ Việt Nam, Trung tâm còn có 01 khu hoạt động văn hóa, giáo dục sức khỏe thẩm mỹ gồm 01 bể bơi, 02 sân tennis và khu xông hơi, massage, thể dục thẩm mỹ.
Với một cơ ngơi khang trang, hiện đại và với những hoạt động chính trị - xã hội mang tính đặc thù, Trung tâm phụ nữ và phát triển chính thức đi vào hoạt động thực sự là niềm tự hào của phụ nữ cả nước. Đây là sự thể hiện sinh động và thiết thực những quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước trong nỗ lực xây dựng người phụ nữ Việt Nam có trí thức, sức khỏe, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới để Trung tâm phụ nữ và phát triển xứng đáng là nơi hội tụ trí tuệ, tài năng và sức sang tạo của phụ nữ Việt Nam.
TW hội phụ nữ là đơn vị sự nghiệp có thu thực hiện theo nghị định 43/2006- NĐ-CP và là đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên
Để Tổ chức và quản lý việc sử dụng tài chính, tài sản của giao, quản lý thống nhất, tập trung nguồn thu, chi các loại hình dịch vụ của Trung tâm. Theo đó, phòng Kế toán Trung t âm khách chịu trách nhiệm phân tích tình hình tài chính hàng quý, năm để tham mưu cho Giám đốc về hướng đầu tư phát triển, hiệu quả sử dụng vốn, cân đối các chi phí quản lý. Đồng thời, phân tích tình hình quản lý sử dụng vốn và
bảo toàn phát triển vốn trên cơ sở tổng hợp số liệu tài chính của Trung tâm, đề xuất các biện pháp nâng cao trình độ quản lý thúc đẩy sự phát triển của đơn vị.
Với cách quản lý trên Trung Tâm hội phụ nữ Năm 2011, tại Trung tâm phụ nữ và phát triển, lĩnh vực kinh doanh lưu trú và cho thuê văn phòng doanh thu cao nhất, đạt tỷ trọng 44,26%, và lĩnh vực hoạt động này cũng đem lại cho Trung tâm khoản lợi nhuận cao nhất 9.877 triệu đồng (Chi tiết xem phụ lục 1). Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của hoạt động này đạt 43,65%, nghĩa là trong 100 đồng doanh thu của hoạt động này thì có tới 43,65 đồng lợi nhuận sau thuế. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên chi phí là 104,45%, nghĩa là Trung tâm bỏ ra 100 đồng chi phí cho hoạt động kinh doanh lưu trú và cho thuê văn phòng thì cuối năm thu được 104,45 đồng lợi nhuận sau thuế. Như vậy có thể thấy rằng việc kinh doanh từ lĩnh vực này với sự thuận lợi của cơ sở vật chất có sẵn đã đem lại hiệu quả rất cao cho Trung tâm.
Lĩnh vực dịch vụ ăn uống đem lại doanh thu nhiều thứ hai cho Trung tâm chiếm 39,13% tổng doanh thu toàn Trung tâm với tổng doanh thu thuần là 15.002 triệu đồng. Tuy vậy, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của lĩnh vực hoạt động này lại không cao chỉ đạt 9,09%, nghĩa là trong 100 đồng doanh thu cho dịch vụ ăn uống Trung tâm có được 9,09 đồng lợi nhuận sau thuế. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên chi phí đạt 10,34% nói lên rằng trong năm 2009 Trung tâm bỏ ra 100 đồng chi phí cho lĩnh vực dịch vụ ăn uống thì cuối năm thu được 10,34 đồng lợi nhuận sau thuế.
Như vậy, qua số liệu phân tích ta thấy, Trung tâm cần chú trọng quảng bá, tiếp thị, có chiến lược thu hút lượng khách đến lưu trú tại Trung tâm, vì đây là lĩnh vực kinh doanh thế mạnh và siêu lợi nhuận (Theo con số thống kê, năm 2009 công suất của dịch vụ lưu trú bình quân tại Trung tâm chỉ đạt 65%). Bên cạnh đó, Trung tâm cũng nên chú trọng đầu tư, sửa chữa cơ sở vật chất, khắc phục những tồn tại về chất lượng dịch vụ cho lĩnh vực kinh doanh này, nhằm tăng giá bán dịch vụ và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Dịch vụ ăn uống của Trung tâm cũng là thế mạnh, tuy nhiên hiệu quả kinh doanh chưa cao. Trung tâm cần tính đến việc tiết
kiệm chi phí nguyên vật liệu, hàng hóa, CCDC cũng như chi phí nhân công và đặc biệt nâng cao chất lượng dịch vụ cả trong chế biến món ăn và phong cách phục vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách và có khả năng tăng giá bán dịch vụ tương ứng khi có biến động về giá cả thị trường.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Nhà khách La Thành
Nhà khách La Thành là đơn vị sự nghiệp có thu thuộc Văn phòng Chính phủ được thành lập theo Quyết định số 296/QĐ-VPCP ngày 26/3/2003 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ về, là đơn vị sự nghiệp có thu thực hiện theo nghị định 43/2006- NĐ-CP và là đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên trực thuộc Cục Quản trị - Tài vụ.
Nhà khách có chức năng: Tổ chức phục vụ các cuộc họp, hội nghị của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Văn phòng Chính phủ, các hội nghị và hoạt động khác của Đảng, Nhà nước, Quốc hội khi có yêu cầu; Phục vụ ăn nghỉ cho khách và đại biểu về dự họp; Được tận dụng cơ sở vật chất, lao động để kinh doanh dịch vụ theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó, Nhà khách có các nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Chủ trì, phối hợp với các Vụ, Cục, đơn vị và các cơ quan, tổ chức liên quan, tổ chức phục vụ các cuộc họp, hội nghị của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Văn phòng Chính phủ, phục vụ ăn, nghỉ cho khách và các đại biểu về dự họp.
+ Phối hợp với các cơ quan liên quan của Đảng, Nhà nước, quốc hội tổ chức phục vụ các cuộc họp, hội nghị và phục vụ ăn, nghỉ cho đại biểu về dự Đại hội Đảng, các Đại biểu Quốc hội về dự các kỳ họp Quốc hội và các cuộc họp, hội nghị khác khi có yêu cầu.
+ Đầu mối tiếp nhận và phục vụ nghỉ, không thu tiền đối với lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thộc Trung ương về làm việc với Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ và lãnh đạo Văn phòng Chính phủ; Phục vụ nghỉ đối với cán bộ, công chức, viên chức các đơn vị thuộc Văn phòng Chính phủ ở phía Nam ra công tác tại Hà Nội; Các cuộc họp
nội bộ của Văn phòng Chính phủ theo yêu cầu của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.
Tiền phòng không thu của các đối tượng quy định tại khoản này được tính vào doanh thu phục vụ nhiệm vụ chính trị của Nhà khách La Thành để xác định lương cho cán bộ, viên chức đơn vị.
+ Được sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động để tổ chức các hoạt động dịch vụ ăn, nghỉ, cho thuê phòng họp, phòng ăn, văn phòng và các dịch vụ có thu khác để tạo nguồn tái đầu tư, sửa chữa, bảo quản cơ sở vật chất, cải thiện đời sống cán bộ, viên chức và giảm chi cho NSNN, nhưng phải đảm bảo không ảnh hưởng đến nhiệm vụ chính trị được giao, thực hiện đúng theo quy định của pháp luật và quy định của Văn phòng Chính phủ
Nhà khách La Thành tọa lạc ngay Trung tâm thủ đô Hà Nội, có vị trí hai mặt tiền, phía trước có địa chỉ tại 218 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội, phía sau nằm trên mặt phố Vạn Phúc, gần với các cơ quan Nhà nước như: UBND quận Ba Đình, Bộ Y tế, Thanh tra Chính phủ và gần các địa điểm du lịch, văn hóa như: Nhà hát chèo Hà Nội, chùa Kim Sơn rất thuận tiện cho khách đến làm việc và du lịch tại Hà Nội. Nhà khách được hình thành từ thời kỳ Pháp thuộc, nên các tòa nhà có kiến trúc kiểu Pháp rất đẹp, nằm trong diện tích khuôn viên rộng, bầu không khí yên tĩnh, rất thích hợp cho việc phát triển kinh doanh dịch vụ ăn uống – khách sạn.
Trải qua các thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Nhà khách được tồn tại và phát triển với nhiều loại hình hoạt động. Rất nhiều năm trước đây, Nhà khách có tên là Khách sạn La Thành là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Văn phòng Chính phủ. Đến ngày 26/3/2006 thực hiện Quyết định số 295/QĐ-VPCP của Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ chuyển Khách sạn La Thành thành đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Cục Quản trị - Tài vụ Văn phòng Chính phủ.
Cơ sở vật chất của Nhà khách sau nhiều năm cải tạo, sửa chữa, nâng cấp và xây dựng mới, đến nay Nhà khách đã có thể đáp ứng được đa dạng các nhu cầu của khách hàng với 302 phòng nghỉ các loại, đạt chuẩn tương đương với khách sạn từ 2 đến 4 sao; Giữa hai tòa nhà chính có khu biệt thự mới xây dựng theo phong cách
hiện đại, tiện nghi thoải mái; Có 14 hội trường lớn, nhỏ có sức chứa từ 70 đến 700 chỗ ngồi; Có 03 nhà hàng lớn có thể tổ chức các buổi tiệc cho hàng nghìn khách tham dự; Bên cạnh đó Nhà khách còn có quán vườn ngoài trời thu hút khách đến sử
dụng dịch vụ kết hợp với thư giãn, nghỉ ngơi và đầy đủ các dịch vụ phụ trợ đi kèm dịch vụ khách sạn như: bể bơi, sân tennis, sauna massage…
Nhà khách La Thành đã đáp ứng ngày càng cao và đa dạng nhu cầu của khách hàng. Kết quả là, doanh thu thuần tăng từ 60.716 triệu đồng năm 2011 lên 64.248 triệu đồng, tương ứng 5,85% năm 2012 (Chi tiết xem Phụ lục 02). Đồng thời, Nhà khách cũng đã có các biện pháp và chiến lược kinh doanh tận dụng được lợi thế về vị trí, đa dạng hóa các loại hình sản phẩm dịch vụ, tiết kiệm và quản lý chi phí tốt, do đó lợi nhuận sau thuế năm 2012 tăng 21,27% so với năm 2011 với tốc độ tăng nhanh hơn tốc độ tăng của doanh thu thuần. Lợi nhuận sau thuế tăng, nên mặc dù trong năm 2012, Nhà khách có đầu tư vào tài sản cố định nhưng tỷ suất lợi nhuận sau thuế so với tổng tài sản bình quân vẫn tăng 0,60% so với năm 2011.
1.3.1.3 Kinh nghiệm của Viện công nghệ môi trường
Viện Công nghệ môi trường thuộc Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam có chức năng nghiên cứu những vấn đề khoa học – công nghệ thuộc lĩnh vực môi trường.
Viện Công nghệ môi trường là đơn vị nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng nhiều công trình đã được ứng dụng đi vào thực tiễn phục vụ sản xuất và đời sống mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao như hệ thống xử lý nước thải, lò đốt rác y tế…Ngoài ra còn có chức năng phối hợp đào tạo, tính đến nay đã và đang hướng dẫn khoảng 170 sinh viên đại học, 76 học viên cao học, 20 nghiên cứu sinh cho Viện nghiên cứu, các trường đại học trong cả nước như; đại học Bách khoa, đại học khoa học tự nhiên…Về hợp tác quốc tế, Viện cũng đã duy trì và phát triển các mối quan hệ hợp tác quốc tế và đào tạo, đưa và nhận các cán bộ khoa học nghiên cứu, đào tạo sau đại học trong lĩnh vực công nghệ môi trường.
Viện Công nghệ môi trường là đơn vị sự nghiệp có thu thực hiện theo nghị định 43/2006- NĐ-CP và là đơn vị tự chủ một phần kinh phí hoạt động thường xuyên.
Về thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước và chủ chương của Đảng:
được cụ thể hóa tại nghị định 43/2006- NĐ-CP và các văn bản pháp quy có liên quan, Luật Ngân sách, các luật thuế, các văn bản khác có liên quan
NSNN cấp cho Viện Công nghệ môi trường ngày càng tăng, Viện đã và đang thực hiện 05 đề tài, nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp nhà nước, 4 khoa học công nghệ theo nghị định thư, 5 nhiệm vụ thuộc chương trình mục tiêu quốc gia, 30 đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp bộ, 15 đề tài nghiên cứu cấp Viện khoa học công nghệ Việt Nam làm cho kinh phí thường xuyên tăng từ 10.586 triệu đồng (năm 2006) lên 21.191 triệu đồng (năm 2011). Trong đó nguồn kinh phí thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn thường từ 60-85% tổng kinh phí NSNN cấp, đối với kinh phí đầu tư XDCB phụ thuộc vào kế hoạch, tiến độ của dự án và nằm trong chương trình mục tiêu quốc gia hàng năm.
Mặc dù khoản chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn NSNN cấp nhưng mới chỉ đáp ứng 40% nhu cầu, vì vậy số còn lại Viện Công nghệ môi trường phải bổ sung từ nguồn thu khác mà chủ yếu là thu phí từ hoạt động tư vấn, thí nghiệm, đào tạo…trong lĩnh vực môi trường.
Số nguồn thu từ phí tăng rõ rệt với tốc độ 13%-15% hàng năm đã bổ sung giảm tải bớt gánh nặng cho cho nguồn chi NSNN, tương ứng từ 2.324 triệu đồng năm 2006 tăng lên 5.687 triệu đồng năm 2011. Bên cạnh đó nguồn viện trợ và nguồn thu khác thông qua quan hệ hợp tác quốc tế ước tính tới 134 tỷ đồng đã đáp ứng được đầu tư công nghệ hiện đại tiên tiến, phục vụ công tác nghiên cứu công nghệ mới, hỗ trợ công tác quản lý môi trường như tham gia xây dựng cơ sở dữ liệu, chương trình hành động, dịch vụ tư vấn, thiết kế, chuyển giao công nghệ …để thực hiện chức năng nhiệm vụ của đơn vị được tốt hơn. Ngoài ra còn các nguồn thu khác như cung cấp vật tư thiết bị và thi công các công trình môi trường, thẩm định thiết bị và công nghệ môi trường…cũng được bổ sung vào kinh phí hoạt động thường xuyên của Viện Công nghệ môi trường
Mặc dù Viện đã đưa công nghệ thông tin vào quản lý tài chính nhưng vẫn còn thất thoát nguồn thu, đội ngũ quản lý tài chính kế toán tại viện vẫn chưa phát huy được khả năng, đôi khi còn lúng túng trong việc quản trị tài chính đơn vị.
Một số loại phí tư vấn về công nghệ mới trong lĩnh vực môi trường nhưng thống
nhất biểu giá nên cũng gây khó khăn xác định nguồn thu của Viện Công nghệ môi trường. Bên cạnh đó các thể chế quy định mối quan hệ giữa các bộ ngành cũng chưa thống nhất trong việc lập kế hoạch, phương pháp và tiêu chí đánh giá hiệu quả sử
dụng nguồn vốn của đơn vị gây khó khăn trong công tác quản lý nói chung cũng như quản lý tài chính nói riêng.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho quản lý tài chính tại Nhà khách Tổng Liên đoàn thuộc Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
Một là, xây dựng chiến lược phát triển lâu dài và tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp công lập có nhiều phương thức huy động nguồn lực tài chính.
Để thực hiện điều này cần đáp ứng các tiêu chí như:
- Ban lãnh đạo các đơn vị đủ về năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, có uy tín cá nhân trong nội bộ cơ quan và mối quan hệ bên ngoài để lãnh đạo toàn diện mọi hoạt động của đơn vị sự nghiệp cũng như tạo nên sự yên tâm từ phía đối tác trong và ngoài nước.
- Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút tối đa các nguồn lực: từ những kinh nghiệm thực tiễn cho thấy để thu hút đầu tư thì môi trường là yếu tố quan trọng.
Nếu có môi trường thông thoáng thuận lợi thì các tổ chức, cá nhân sẽ góp vốn, đầu tư vào lĩnh vực mà muốn đầu tư. Môi trường đó là các chủ chương, chính sách của Nhà nước thống nhất giữa các bộ, ngành và vận dụng vào thực tế được nhanh chóng kịp thời nhưng vẫn đảm bảo tính nguyên tắc, các thủ tục đơn giản gọn nhẹ mang tính chính xác, tránh phiền hà nhũng nhiễu của các cán bộ thực hiện gây ra cho các đối tác lên quan khi thực hiện hợp tác kinh tế.
- Bên cạnh đó Ban Giám đốc phải tổ chức tốt bộ máy quản lý tài chính để có những quy định rõ ràng, cụ thể, tạo điều kiện tối đa nhưng trong khuôn khổ luật định nhằm thu hút tối đa các nguồn lực tài chính đáp ứng cho hoạt động sự nghiệp và cũng là để giảm tải gánh nặng của nguồn chi từ NSNN.
Hai là, tăng cường phương thức quản lý huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn tài chính có hiệu quả.
Nhà khách Tổng Liên đoàn là đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên do vậy để đảm bảo nguồn kinh phí để hoạt động