• Tidak ada hasil yang ditemukan

Những nhân tố ảnh hưởng đến quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ QUẢN

1.2. Nội dung, những nhân tố ảnh hưởng và tầm quan trọng quản lý tài chính

1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công

1.2.3.1 Cơ chế quản lý của Nhà nước

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nề kinh tế xã hội, nhu cầu hưởng thụ dịch vụ công của xã hội và người dân ngày càng cao và đa dạng nhất là về dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa và thể dục thể thao ngày càng cao cả về số lượng và chất lượng.

Dịch vụ sự nghiệp công là loại dịch vụ phục vụ quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội do nhà nước cung cấp cho nhân dân và cộng đồng xã hội. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của các tầng lớp nhân dân, Nhà nước đã thực hiện các biện pháp để tăng cường số lượng, chất lượng cung cấp các dịch vụ sự nghiệp của các đơn vị công lập, đồng thời mở rộng cho mọi thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia cung cấp trong đó Nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo cung cấp một số dịch vụ cơ bản thiết yếu theo đúng đường lới chủ trương của Đại hội Đảng XI cho các vùng sâu, vùng xa, vùng miền có điều kiện kinh tế còn khó khăn, cung cấp cho các đối tượng chính sách, người nghèo trong xã hội.

Cùng với lộ trình cải cách hành chính Nhà nước, cơ chế chính sách của Nhà nước đối với hoạt động sự nghiệp công lập đã từng bước thay đổi, phù hợp với thực tiễn và yêu cầu cải cách hành chính của Nhà nước. Trước đây thì đơn vị SNCT đã được trao quyền tự chủ về tài chính, tháo gỡ cho các đơn vị khó khăn trong điều hành ngân sách, tự chủ trong chi tiêu, tiết kiệm chi để nâng cao thu nhập cho cán bộ viên chức. Tiếp theo thì đơn vị sự nghiệp công lập không những được tự chủ trong tài chính mà còn được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và biên chế.

1.2.3.2 Đặc điểm cơ quan chủ quản

Mỗi ngành nghề, mỗi lĩnh vực đều có đặc điểm riêng, tạo nên những nét đặc trưng của tầng ngành. Những nét đặc trưng này là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý tài chính của ngành cũng như của các đơn vị trong ngành, đặc biệt là các đơn vị sự nghiệp .

Các đơn vị hành chính sự nghiệp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cung cấp các dịch vụ theo quy định của nhà nước. Những hoạt động này gắn

với những lĩnh vực sự nghiệp nhất định, nhằm mục tiêu trên hết vì lợi ích cộng đồng.

Mỗi lĩnh vực sự nghiệp có những đặc thù riêng, nhà nước có những quy định riêng để điều chỉnh. Trên mỗi lĩnh vực sự nghiệp hoạt động đặc thù, các đơn vị sự nghiệp có điều kiện, cơ hội khác nhau để phát huy, mở rộng, khai thác các nguồn thu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nâng cao chất lượng phục vụ, đồng thời phải tuân thủ pháp luật và các định hướng khác của Nhà nước trong lĩnh vực sự nghiệp đó.

Xuất phát từ đặc điểm của ngành, doanh nghiệp chủ quản đòi hỏi công tác quản lý tài chính phải được thiết lập theo những đặc thù riêng để hoạt động toàn ngành được thuận lợi, thông suốt. Vì thế, các đơn vị hành chính sự nghiệp có thu năm trong từng ngành, từng doanh nghiệp sẽ được được đơn vị chủ quản thiết lập cho những cơ chế quản lý nội bộ áp dụng riêng trong ngành, giải quyết được với những yêu cầu riêng của ngành, vừa đảm bảo cụ thể hoá văn bản pháp quy của Nhà nước, vừa đáp ứng được những yêu cầu riêng của ngành, vừa giải quyết được những yêu cầu quản lý cụ thể, đặc thù mà Nhà nước chưa quy định cụ thể, nhờ đó công tác quản lý tài chính sẽ chặt chẽ hơn.

Tuy nhiên, do chịu sự tác động của những đặc điểm hoạt động của ngành, doanh nghiệp chủ quản nên các đơn vị hành chính sự nghiệp có thu sẽ có những cơ chế riêng thắt chặt thêm. Một số ngành, doanh nghiệp chủ quản có những cơ chế riêng thắt chặt thêm. Một số ngành, doanh nghiệp chủ quản có những chính sách quản lý cho các đơn vị thành viên, làm ảnh hưởng đến tính tự chủ của đơn vị hành chính sự nghiệp có thu trong ngành.

Các đơn vị hành chính sự nghiệp có thu sẽ phải tuân thủ cơ chế quản lý tài chính của đơn vị chủ quản. Do đó, ngoài cơ chế quản lý của Nhà nước, các đơn vị này còn có một cơ chế quản lý tài chính riêng cho những đặc thù của ngành với các cơ quy định cụ thể, rõ ràng, tránh được những vướng mắc về cơ chế chung không phù hợp với đặc điểm hoạt động của đơn vị.

Mặt khác, các doanh nghiệp quản lý đơn vị sự nghiệp có thu thường là những doanh nghiệp lớn, các bộ các ngành lớn, có tiềm lực về kinh tế mạnh nên nguồn kinh phí do đơn vị chủ quản cấp cho đơn vị hành chính sự nghiệp có thu

thường nới rộng hơn so với nguồn kinh phí cấp phát từ ngân sách nhà nước, điều kiện cấp phát kinh phí được nới rộng hơn nên các đơn vị hành chính sự nghiệp có thu có điều kiện về nguồn vốn để trang trải cho hoạt động sự nghiệp của mình hơn so với các doanh nghiệp nhà nước khác.

Tuy nhiên, các đơn vị hành chính sự nghiệp có thu trực thuộc các bộ, ngành các doanh nghiệp lớn do vậy chế độ hạch toán thường là phụ thuộc nên cơ chế tài chính của đơn vị chủ quản áp dụng cho các đơn vị này thường chặt chẽ hơn, ít được quyền tự chủ hơn về tài chính. Các đơn vị này bắt buộc phải tuân thủ cơ chế tài chính của doanh nghiệp chủ quản cho dù cơ chế đó là tiên tiến hay lạc hậu. Vì vậy, nếu trong điều kiện cơ chế, chính sách Nhà nước có nhiều biến động mà có chế tài chính đơn vị chủ quản không cập nhật, sửa đổi kịp thời sẽ cản trở đến công tác tài chính và hoạt động chuyên môn của đơn vị hành chính sự nghiệp công lập

Tự chủ tài chính của đơn vị hành chính sự nghiệp công lập trước hết là dựa trên nguồn thu chi hoạt động của đơn vị. Đơn vị phải có sự chủ động, linh hoạt trong việc mở rộng khai thác nguồn thu sự nghiệp. Điều này một mặt phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, chức năng nhiệm vụ được giao của đơn vị. Mặt khác, nó phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức bộ máy và năng lực, sự nhạy bén của đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức có năng lực, sự nhạy bén của đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức của đơn vị. Với bộ máy gọn nhẹ, đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức có năng lực, nhanh nhạy cùng với năng lực quản lý của người lãnh đạo sẽ góp phần vào quá trình xử lý thông tin, ra quyết định nhanh chóng, kịp thời và đúng đắn giải quyết các vấn đề của đơn vị nói chung cũng như việc khai thác, mở rộng nguồn thu sự nghiệp nói riêng.

1.2.3.3. Chất lượng đội ngũ quản lý tài chính và

tổ chức bộ máy quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp công

Thứ nhất, chất lượng đội ngũ quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp công

Trình độ và phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập là yếu tố ảnh hưởng lớn tới cơ chế quản lý tài chính. Để thực hiện quản lý tốt thì đòi hỏi người cán bộ phải có tâm, có tài, có đạo đức nghề nghiệp.

Cán bộ quản lý là chủ thể của quản lý, là khâu trọng yếu trong việc xử lý các thông tin để đề ra các quyết định quản lý, do đó nó có ảnh hưởng đến chất lượng của bộ máy quản lý, quyết định sự thành bại của công tác quản lý nói chung cũng như công tác quản lý tài chính nói riêng.

Quyết định quản lý đó là kết quả của việc nhận thức và kết hợp các thể chế, chính sách quy định của hệ thống pháp luật nhà nước và nhu cầu của thị trường hoặc có thể là các đặt hàng của nhà nước.Tuy nhiên mọi quyết định của chủ thể quản lý phải khách quan và tuân thủ vận dụng các quy luật khách quan cho phù hợp với các quyết định quản lý cả về không gian và thời gian.

Các quyết định quản lý đúng đắn sẽ có tác dụng tích cực đối với các đơn vị sự nghiệp có thu trong việc tự chủ tài chính, tự chủ biên chế của việc thực hiện theo quy định hiện hành của Nhà nước, ngược lại các quyết định thiếu đúng đắn sẽ ảnh hưởng bản thân đơn vị và ảnh hưởng cả đến các mục tiêu quan trọng của Đảng và Nhà nước đề ra.

Đối với các cơ quan quản lý cấp trên, các cán bộ quản lý tài chính có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm thực tiễn, có đạo đức nghề nghiệp sẽ đưa ra được các quyết sách phù hợp, xử lý thông tin kịp thời đáp ứng được yêu cầu quản lý.

Đối với các đơn vị trực tiếp chi tiêu, đội ngũ nhân sự thực hiện trực tiếp công tác tài chính kế toán cũng đòi hỏi nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, hiểu biết chế độ chính sách để đưa công tác tài chính kế toán của đơn vị đi vào nề nếp, tuân thủ các chế độ quản lý tài chính, pháp luật về thuế, công tác thống kê đạt hiệu quả cao.\

Thứ hai, tổ chức bộ máy quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp công

Cơ chế quản lý tài chính của các đơn vị SN công lập là hoạt động có ý thức của các nhà quản lý tác động đến từng bộ phận cũng như toàn bộ các hoạt động sự nghiệp nhằm thực hiện các nhiệm vụ để huy động và sử dụng các nguồn tài chính thông qua tổ chức quản lý thu chi có hiệu quả. Công tác tổ chức quản lý tốt là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến khả năng tự chủ tài chính của đơn vị, có thể tạo thêm được nguồn thu và tăng thêm trong những nguồn thu đã có đồng thời sử

dụng hợp lý các khoản chi trong điều kiện nguồn thu cho phép.

Con người là nhân tố trung tâm của bộ máy quản lý, là khâu trọng yếu trong

việc xử lý các thông tin được thể hiện thông qua bộ máy quản lý và luôn đóng vai trò quyết định trong quá trình quản lý của các đơn vị.

Bộ máy quản lý tài chính của các đơn vị SNCL không có khuôn mẫu chung vì các lĩnh vực, phạm vi hoạt động và các nhân tố ảnh hưởng khác nhau vì thế bộ máy quản lý nói chung và quản lý tài chính của các đơn vị SNCL có đặc thù riêng. Bộ máy gồm: đơn vị cấp ngân sách, cơ quan chủ quản, đơn vị hưởng thụ ngân sách trong đó thủ trưởng đơn vị - là người chủ tài khoản trực tiếp quản lý hoạt động tài chính của đơn vị. Bên cạnh đó còn có bộ máy kế toán tài chính, kiểm toán nội bộ và kế toán trưởng là người thực hiện công tác giám sát tài chính và tổ chức thực hiện công tác hạch toán tại đơn vị.

Trình độ cán bộ quản lý có ảnh hưởng tới tính chính xác của các quyết định quản lý, do đó ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý cũng như công tác tự chủ tài chính của các đơn vị SNCL.

Do vậy, đội ngũ tài chính kế toán tại các đơn vị đòi hỏi phải đáp ứng đủ cả về chất lượng, số lượng, kinh nghiệm công tác, trình độ ngoại ngữ, đạo đức nghề nghiệp cũng như trình độ lý luận chính trị mới thực hiện quản lý của đơn vị ngày đạt kết quả tốt.

Bộ máy quản lý tài chính của các đơn vị SNCL được thực hiện theo luật pháp, nghị định, các thông tư hướng dẫn và các văn bản pháp luật liên quan tới quy định về tài chính, kế toán của Nhà nước. Tuân thủ chặt chẽ các hệ thống trên sẽ góp phần vào nâng cao hiệu quả của công tác quản lý tài chính trong toàn ngành.

1.2.3.4. Sự phát triển của đơn vị đối với đơn vị sự nghiệp công

Các đơn vị sự nghiệp được thành lập và hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Nhà nước là cung cấp các loại hàng hóa, dịch vụ công cho xã hội và trong quá trình phát triển được Nhà nước cho phép tạo nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp thông qua phí, lệ phí để bù đắp một phần hoặc toàn bộ kinh phí hoạt động.

Với tính chất đặc thù của mình, các đơn vị SNCL phải có các cách thức, vận động phù hợp theo cơ chế thị trường, tuân thủ theo các quy luật khách quan chủ yếu thông qua quy luật giá trị. Vì vậy sự vận động các quy luật cơ bản của thị trường:

quy luật cung cầu, quy luật canh tranh, quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ

đều ảnh hưởng đến cơ chế tài chính của hoạt động sự nghiệp

Để đứng vững trong cơ chế thị trường, từng lĩnh vực sự nghiệp các đơn vị không những phải vươn lên trong cạnh tranh chất lượng sản phẩm về giáo dục, chăm sóc cộng đồng dân cư, giá trị văn hóa, thẩm mỹ, tính dân tộc, tính hiện đại…

mà còn cạnh tranh cả về giá trị tiền tệ, hạ thấp giá thành để thu hút nhiều nhân dân sử dụng các dịch vụ công. Điều đó thể hiện sự phát triển cả về chất và lượng dịch vụ công của các đơn vị SNCT cung cấp, có ảnh hưởng rõ rệt tới cơ chế QLTC.

1.2.4. Tầm quan trọng của quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công