• Tidak ada hasil yang ditemukan

Khái niệm, nguyên nhân và tác động của biến đổi khí hậu

Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN

1.1. Khái niệm, nguyên nhân và tác động của biến đổi khí hậu

Có nhiều khái niệm khác nhau về biến đổi khí hậu (IPCC, 2007; MORE, 2008), mỗi khái niệm đứng trên những quan điểm riêng biệt nhưng đều thống nhất cách hiểu về sự thay đổi trạng thái khí hậu trong một khoảng thời gian dài và có thể xác định được. Trong đó, khái niệm của Ủy ban liên chính chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) được chấp nhận rộng rãi. Theo đó, biến đổi khí hậu là sự biến đổi về trạng thái của hệ thống khí hậu, có thể được nhận biết qua sự biến đổi về trung bình và biến động của các thuộc tính của nó, được duy trì trong một thời gian dài, điển hình là hàng thập kỷ hoặc dài hơn.

Biến đổi khí hậu do 2 nguyên nhân chính gây ra là do tự nhiên và do con người. Nguyên nhân gây ra BĐKH do tự nhiên bao gồm thay đổi cường độ sáng của mặt trời, xuất hiện các điểm đen mặt trời, hoạt động núi lửa, thay đổi đại dương và thay đổi quỹ đạo quay của trái đất. Tuy nhiên, theo các kết quả nghiên cứu và công bố từ IPCC thì nguyên nhân gây ra BĐKH chủ yếu là do các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của con người đã làm tăng nồng độ các khí nhà kính (N2O, CH4, H2S, CFCs và CO2) trong khí quyển, làm Trái đất nóng lên, làm biến đổi hệ thống khí hậu và ảnh hưởng tới môi trường toàn cầu. Trong báo cáo của IPCC (2007) với một loạt các nghiên cứu chỉ ra rằng hoạt động con người đóng góp vào 90% nguyên

nhân gây ra biến đổi khí hậu. Các biểu hiện chính của biến đổi khí hậu là trời nóng hơn, nước biển dâng cao và xâm nhập mặn và các dạng thiên tai như bão lũ, hạn hán, nắng nóng, rét hại có xu hướng bất thường hơn.

1.1.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp và thủy sản

1.1.2.1. Tác động của biến đổi khí hậu đối với nông nghiệp Việt Nam Nằm ở khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á, Việt Nam là một trong những quốc gia hứng chịu các kiểu thời tiết khắc nghiệt và nước biển dâng. BĐKH có thể ảnh hưởng đến cây trồng và vật nuôi theo nhiều cách khác nhau, gây ra tác động xấu đối với sinh kế nông thôn, an ninh lương thực và các hoạt động khác (MONRE, 2008). Sự thay đổi về nhiệt độ và phân bố lượng mưa sẽ ảnh hưởng đến năng suất cây trồng và thời gian thu hoạch. Sự thay đổi về điều kiện sinh thái liên quan tới BĐKH có thể làm tăng tỷ lệ nhiễm bệnh và lây lan sâu bệnh. Các thiệt hại hoặc giảm năng suất cây trồng và vật nuôi là hậu quả của các loại hiểm họa diễn ra chậm như bão, lũ lụt, lốc xoáy, hạn hán và xâm nhập mặn do mực nước biển dâng.

Nghiên cứu của Viện môi trường nông nghiệp (2010) đã chỉ ra rằng ngành nông nghiệp Việt Nam đã chịu thiệt hại gần 800 tỷ đồng do thiên tai, bão lụt trong giai đoạn 1995 – 2007. Dựa theo kịch bản trung bình của MONRE (2012) về biến đổi khí hậu, sản lượng lúa giảm 8,37%, sản lượng ngô giảm 18,71%, sản lượng đậu tương giảm 3,51% vào năm 2030 so với tiềm năng. Ước tính của MORE (2016) nếu nước biển dâng cao thêm 1m và không có các biện pháp ứng phó kịp thời, khoảng 16,8% diện tích Đồng bằng sông Hồng, 1,47% diện tích các tỉnh ven biển miền Trung và 38,9% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập.

1.1.2.2. Tác động của BĐKH đến nuôi trồng thủy sản ven biển Việt Nam Các tác động tiềm tàng của BĐKH đối với ngành thuỷ sản cũng gần tương tự như đối với ngành nông nghiệp (MONRE, 2008). Sư thay đổi nhiệt độ nước biển sẽ ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của các loài thủy sản (cá, tôm) dẫn đến khả năng thay đổi dần về số lượng. BĐKH có thể làm thay đổi sinh thái tác động tới các nguồn thực phẩm, môi trường sống của các loài (rong, tảo, rừng ngập mặn). Chất lượng nước thay đổi và lây lan dịch bệnh, ảnh hưởng đến năng suất và sự sống. Các ao, hồ

và đê bao dễ chịu ảnh hưởng bởi các hiện tượng thời tiết cực đoan như lũ, nước dâng và bão. Xâm nhập mặn làm thay đổi về điều kiện nước, môi trường sống làm cho một số khu vực không còn phù hợp cho các loài nước ngọt.

Hoạt động nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam là ngành dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu (Alison, 2009; Phan Sĩ Mẫn và Hà Ngọc Huy, 2013) và xu hướng hướng ngày càng tăng, đặc biệt đối với người nuôi thủy sản với quy mô nhỏ. Thiệt hại về sản lượng nuôi trồng thủy sản ở nhiều tỉnh như Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau đã tăng tới 30-40%/năm (Trần Thọ Đạt và Vũ Thị Hoài Thu, 2012; Phan Sỹ Mẫn và Hà Huy Ngọc, 2013). Chi phí cho các biện pháp thích ứng của hộ nuôi trồng thủy sản sẽ gia tăng. Khu vực phía Bắc có tổng thiệt hại nuôi trồng thủy sản hàng năm do biến đổi khí hậu lên tới 568 tỉ đồng (Nguyễn Ngọc Thanh và ctv, 2015). Viện kinh tế và Quy hoạch thủy sản (2015) đã dự báo theo kịch bản phát thải trung bình B2 của MORNE (2012) thì đến năm 2030 nếu nhiệt độ trung bình ở Việt Nam tăng thêm 0,720C và lượng mưa tăng thêm 1,54 mm thì sản lượng tôm nước lợ toàn quốc có thể thiệt hại khoảng 24.550 tấn. Vì thế, ngành nuôi trồng thủy sản chung và ngành nuôi tôm nói riêng ở Việt Nam đang đứng trước những thách thức to lớn.

1.2. Nguồn lực sinh kế trong bối cảnh biến đổi khí hậu 1.2.1. Sinh kế và sinh kế bền vững

Chambers and Conway (1992) định nghĩa sinh kế là hoạt động mà con người thực thi dựa trên tất cả các khả năng, nguồn lực cần thiết để tồn tại cũng như để đạt được các mục tiêu sống của họ. Sinh kế bao gồm các khả năng, nguồn lực (nguồn lực vật chất và xã hội) và các hoạt động cần thiết kiếm sống (DFID, 2001).

Chambers and Conway (1992) cho rằng một sinh kế là bền vững “khi nó có thể giải quyết được hoặc có khả năng phục hồi từ những căng thẳng và đột biến, duy trì hoặc tăng cường khả năng và nguồn lực; tạo ra các cơ hội sinh kế bền vững cho thế hệ tương lai và mang lại lợi ích ròng cho các sinh kế khác ở cả cấp địa phương và cấp toàn cầu, trong ngắn hạn và dài hạn”. Trần Thọ Đạt và Vũ Hoài Thu (2013) định nghĩa một sinh kế là bền vững khi có khả năng thích ứng và phục hồi trước những cú sốc hoặc đột biến từ bên ngoài, không phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ

bên ngoài, duy trì được năng suất trong dài hạn của các nguồn tài nguyên thiên nhiên và không làm phương hại đến các sinh kế khác.

Trong bối cảnh BĐKH toàn cầu hiện nay, một số thuật ngữ mới được đề cập như “sinh kế thích ứng” hay “sinh kế chống chịu”. Về cơ bản, đó là sinh kế có khả năng chống chịu với các tác động từ thời tiết cực đoan, giảm thiểu thiệt hại do BĐKH gây ra và phát huy được các mặt có lợi do BĐKH mang lại cũng như giảm phát thải khí nhà kính. Các hoạt động thích ứng về sinh kế trước tác động của BĐKH bao gồm các hoạt động mà bản thân hộ gia đình thực hiện, các hoạt động được chính phủ lập kế hoạch hỗ trợ và các hoạt động hỗ trợ của các tổ chức khác.

1.2.2. Nguồn lực sinh kế và biến đổi khí hậu

Nguồn lực sinh kế có thể hữu hình như tiền mặt, cây cối, đất đai, gia súc, công cụ, và các nguồn lực khác. Nguồn lực sinh kế cũng có thể vô hình như nghề nghiệp, kiến thức, công việc và hỗ trợ cũng như truy cập vào các tài liệu, thông tin, giáo dục, dịch vụ y tế và các cơ hội việc làm. Nguồn lực sinh kế (vốn sinh kế) là những nguồn lực cụ thể cũng như khả năng của con người trong khai thác, sử dụng, tái tạo, bồi dưỡng và bảo vệ các nguồn lực đó (DFID, 2001). Nguồn lực sinh kế của nông hộ đề cập đến 5 loại nguồn lực mà họ sở hữu hoặc có thể tiếp cận sử dụng là con người, tự nhiên, xã hội, vật chất và tài chính.

Khi xem xét các tác động hiện tại và tương lai của biến đổi khí hậu, có thể nhận thấy rằng BĐKH là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến các nguồn lực sinh kế. Biến đổi khí hậu gây ảnh hưởng đến các nguồn lực tự nhiên (đất, nước, tài nguyên thủy sản), các nguồn lực vật chất (đường sá, hệ thống thủy lợi, mạng lưới điện), các nguồn lực xã hội (các mối quan hệ, tổ chức), các nguồn lực con người (sức khỏe, khả năng làm việc, kỹ năng), các nguồn lực tài chính (tiết kiệm, tín dụng, thu nhập) mà nhạy cảm với biến đổi khí hậu. Khi nguồn lực sinh kế bị ảnh hưởng do BĐKH, hoạt động của nông hộ sẽ bị tổn thương. Hoạt động nông hộ bị tổn thương sẽ ảnh hưởng đến các kết quả và hiệu quả sản xuất. Ví dụ, mực nước biển dâng gây ngập lụt làm cho nông hộ không thể nuôi tôm được trên diện tích đất bị ngập lụt đó. Vì thế, đánh giá nguồn lực sinh kế của nông hộ trong bối cảnh biến đổi

khí hậu bước đầu giúp nhận diện các yếu tố dễ bị tổn thương, làm cơ sở đánh giá tính dễ bị tổn thương cũng như đề xuất các biện pháp thích ứng có cơ sở hơn.

1.3. Tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu và phương pháp đánh giá

Garis besar

Dokumen terkait