Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.6. Hiệu quả kinh tế của các hộ nuôi tôm biển
3.6.2. Phân bổ mức hiệu quả kinh tế của các hộ nuôi tôm
Hiệu quả kinh tế được tính toán dựa vào phần sai số phi hiệu quả kinh tế (ui) trong hàm lợi nhuận biên ngẫu nhiên ở trên, mức hiệu quả kinh tế của các hộ nuôi TSQCCT và TTCTTC được trình bày Bảng 3.27.
Mức hiệu quả kinh tế trung bình của hộ nuôi TSQCCT trên địa bàn tỉnh Bến Tre ở mức khá cao là 70,51%. Khả năng còn tăng hiệu quả kinh tế của các hộ nuôi còn khoảng 29,49% bằng cách sử dụng con giống, thức ăn có nguồn gốc, thương hiệu rõ ràng có chất lượng với giá cả hợp lý, tăng cường thời gian chăm sóc, đầu tư cải tạo ao nuôi kỹ lưỡng và giảm sự tác động của biến đổi khí hậu. Có sự chênh lệch rất lớn giữa hộ có mức hiệu quả kinh tế thấp nhất (7,43%) và hộ có mức hiệu quả kinh tế cao nhất (98,42%). Đa số các hộ nuôi tôm quảng canh đạt mức hiệu quả kinh tế cao từ 80 – 100% chiếm tỷ lệ 52,17%. Số hộ nuôi TSQCCT đạt mức hiệu quả kinh tế thấp hơn 50% chiếm tỷ lệ khoảng 26,09%.
. Bảng 3.27. Phân bổ mức hiệu quả kinh tế (EE) của hộ nuôi tôm Mức hiệu quả
kinh tế (%)
EE mô hình TSQCCT EE mô hình TTCTTC Số hộ Tỷ lệ (%) Số hộ Tỷ lệ (%)
90 ≤ EE ≤ 100 39 42,39 1 0,59
80 ≤ EE < 90 9 9,78 5 2,94
70 ≤ EE < 80 9 9,78 15 8,82
60 ≤ EE < 70 7 7,61 9 5,29
50 ≤ EE < 60 4 4,35 12 7,06
EE < 50 24 26,09 128 75,29
Trung bình 70,51 30,94
Thấp nhất 7,43 0,88
Cao nhất 98,42 93,59
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu khảo sát, 2018
Tổng lợi nhuận mà hộ có thể tăng hay chênh lệch giữa lợi nhuận tối đa tiềm năng và lợi nhuận thực tế là 75,79 - 58,41= 17,38 triệu đồng/ha (Hình 3.26).
Hình 3.26. Lợi nhuận thực tế và lợi nhuận tối đa của hộ nuôi TSQCCT Mức hiệu quả kinh tế trung bình của hộ nuôi TTCTTC thấp hơn mô hình TSQCCT rất nhiều, chỉ đạt 30,94%. Mức hiệu quả kinh tế trung bình này có tính đến ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, vì thế thấp hơn so với nhiều nghiên cứu trước đây như nghiên cứu của Phạm Lê Thông và Đặng Thị Phương (2015) ở Đồng bằng sông Cửu Long là 49%; của Nguyễn Thùy Trang và ctv (2018) ở Sóc Trăng là 80,82%; của Kim Anh và ctv (2020) ở Khánh Hòa là 90,5% và ở Trà Vinh là 88,9%. Ngoài ra, có sự biến động lớn mức hiệu quả kinh tế giữa các hộ khảo sát ở Bến Tre, hộ lớn nhất đạt mức hiệu quả kinh tế là 93,59% trong khi hộ thấp nhất chỉ đạt 0,88%. Điều này là do có sự khác biệt lớn về kỹ thuật chăm sóc và khả năng quản lý đầu vào giữa các hộ nuôi tôm cũng như sự biến động thường xuyên thời tiết dẫn đến rủi ro cao về đầu ra. Phần lớn các hộ nuôi tôm có mức hiệu quả kinh tế ở mức dưới trung bình (<50%) chiếm tỷ lệ rất cao khoảng 75,29%.
Với mức hiệu quả kinh tế trung bình là 30,94% cho thấy ở mức đầu ra hiện tại, hộ nuôi TTCTTC có thể tăng lợi nhuận đến 69,06%. Mức lợi nhuận mất đi do không đạt hiệu quả kinh tế hay nói cách khác là lợi nhuận có thể tăng (hiệu số giữa lợi nhuận tối đa tiềm năng và lợi nhuận thực tế) cũng rất cao, trung bình là 1.351,63 - 617,58 = 734,05 triệu đồng/ha (Hình 3.27).
Hình 3.27. Lợi nhuận thực tế và lợi nhuận tối đa của hộ nuôi TTCTTC 3.6.3. Ảnh hưởng của các biện pháp thích ứng BĐKH đến hiệu quả kinh tế
Ảnh hưởng của các biện pháp thích ứng biến đổi khí hậu và yếu tố khác đến mức phi hiệu quả kinh tế cũng được trình bày ở Bảng 3.26. Dấu âm (-) của hệ số ước lượng cho biết mối quan hệ đồng biến với mức hiệu quả kinh tế và dấu dương (+) của hệ số ước lượng có mối quan hệ nghịch biến đến mức hiệu quả kinh tế.
Các biện pháp điều chỉnh lịch thời vụ, điều chỉnh kỹ thuật và phòng ngừa rủi ro đều có ảnh hưởng đồng biến đến hiệu quả kinh tế hộ nuôi TSQCCT và TTCTTC (dấu của các hệ số ước lượng đều âm).
Biện pháp điều chỉnh lịch thời vụ ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
đến mô hình nuôi TSQCCT nhưng không có ý nghĩa thống kê trong mô hình nuôi TTCTTC. Biện pháp này hầu như không tốn kém nhiều chi phí mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau và theo khuyến cáo của khuyến nông. Nếu hộ nuôi TSQCCT áp dụng biện pháp điều chỉnh lịch thời vụ thì mức hiệu quả kinh tế tăng 1,76%, với điều kiện các yếu tố khác không đổi.
Việc áp dụng biện pháp điều chỉnh kỹ thuật góp phần tăng hiệu quả kinh tế hộ nuôi TTCTTC ở mức ý nghĩa thống kê 1%. Cụ thể là khi hộ nuôi TTCTTC áp dụng biện pháp này giúp mức hiệu quả kinh tế tăng 0,55%, với điều kiện các yếu tố khác không đổi. Biện pháp này không ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế hộ nuôi TSQCCT nhưng có tác động tỷ lệ thuận. Điều chỉnh kỹ thuật là biện pháp quan trọng góp phần tăng doanh thu và lợi nhuận cho nông hộ. Chi phí cho áp dụng biện
pháp này là cao hơn so với áp dụng các biện pháp thích ứng khác. Vì vậy các nông hộ cần lựa chọn và kết hợp các yếu tố đầu vào sao cho tiết kiệm chi phí nhất.
Biện pháp phòng ngừa rủi ro ảnh hưởng đến mức hiệu quả kinh tế hộ nuôi TTCTTC với ý nghĩa thống kê 5%. Khi áp dụng biện pháp này sẽ góp phần tăng hiệu quả kinh tế lên 0,35%, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Điều này cho thấy người nuôi tôm cần chủ động xây dựng kế hoạch ứng phó với rủi ro thiên tai sẽ làm giảm đáng kể thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra.
Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp đa dạng hóa sản xuất lại làm giảm hiệu quả kinh tế của các hộ nuôi tôm nhưng chỉ có ý nghĩa thống kê ở mô hình nuôi TTCTTC. Đây là mô hình nuôi thâm canh nên đòi hỏi mức độ chuyên môn hóa cao, nông hộ cần tập trung nhiều lao động và vốn vào sản xuất. Nếu phân tán các yếu tố đầu vào không hợp lý sẽ làm giảm hiệu quả kinh tế. Khi hộ nuôi TTCTTC áp dụng biện pháp này sẽ làm giảm hiệu quả kinh tế 0,28%, điều kiện các yếu tố khác không đổi.
Chỉ số dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu có ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế hộ nuôi tôm trong cả hai mô hình ở mức ý nghĩa thống kê là 1%. Điều này chứng tỏ rằng biến đổi khí hậu thực sự có tác động mạnh đến hiệu quả kinh tế của các hộ nuôi tôm trên địa bàn nghiên cứu. Với điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu chỉ số dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu của nông hộ tăng 1% thì hiệu quả kinh tế sẽ giảm 0,108% đối với hộ nuôi TSQCCT và giảm 0,072% đối với hộ nuôi TTCTTC.
Trình độ học vấn có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kinh tế các hộ nuôi tôm và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% đối với hộ nuôi TSQCCT. Điều này cho biết khi số năm đến trường của chủ hộ tăng 1 năm thì hiệu quả kinh tế tăng 0,23%, với điều kiện các yếu tố khác không đổi. Tương tự, các nghiên cứu trước đây đều có kết quả là trình độ học vấn có ảnh hưởng đồng biến đến hiệu quả kinh tế (Phạm Lê Thông và Đặng Thị Phương, 2015; Nguyễn Thùy Trang, 2020; Trần Ngọc Tùng, 2019).
Diện tích ao nuôi tôm có ảnh hưởng nghịch biến đến hiệu quả kinh tế hộ nuôi TTCTTC với mức ý nghĩa thống kê 1%. Điều này có thể giải thích rằng những hộ nuôi thâm canh có diện tích ao nuôi lớn thì việc kiểm soát các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ mặn và oxy trong ao nuôi khó khăn hơn. Hơn nữa, trình độ học vấn
của hộ nuôi tôm còn thấp nên khả năng quản lý canh tác của họ chưa cao và gặp hạn chế trong việc hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh đối với quy mô lớn. Khi diện tích ao nuôi của hộ nuôi TTCTTC tăng 1 ha thì hiệu quả kinh tế giảm 0,49%, điều kiện các yếu tố khác không đổi. Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của Nguyễn Thùy Trang (2020) ở tỉnh Sóc Trăng, Kim Anh và ctv (2020) ở Khánh Hòa nhưng ngược lại với nghiên cứu của Phạm Lê Thông và và ctv (2015) ở ĐBSCL.
Tham gia khuyến nông đều giúp hộ nuôi TSQCCT và TTCTTC nâng cao hiệu quả kinh tế. Thông qua các lớp tập huấn khuyến nông, hộ nuôi tôm được trang bị và cập nhật các kiến thức tiên tiến. Khuyến nông ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế hộ nuôi TSQCCT ở mức ý nghĩa 1% và hộ nuôi TTCTTC ở mức ý nghĩa 10%. Với điều kiện yếu tố khác không đổi, khi hộ tham gia khuyến nông thêm 1 lần trong năm sẽ giúp hiệu kinh tế nuôi TSQCCT tăng 0,62% và nuôi TTCTTC tăng 0,11%.
Tuy nhiên, nghiên cứu của Phạm Lê Thông và Đặng Thị Phương (2015) và Trần Ngọc Tùng (2019), khuyến nông lại không ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế.
Biến số lượng nguồn thông tin về biến đổi khí hậu mà hộ tiếp cận ảnh hưởng tích cực và mạnh mẽ đến hiệu quả nuôi TSQCCT và TTCTTC với mức ý nghĩa thống kê là 1%. Với điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi hộ tiếp cận thêm một nguồn thông tin về biến đổi khí hậu thì hiệu quả kinh tế của hộ nuôi TSQCCT tăng 0,74% và của hộ nuôi TTCTTC tăng 0,38%.
Tóm lại, hầu như các yếu tố được lựa chọn trong các mô hình nghiên cứu đều có ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật và kinh tế của các hộ nuôi tôm. Việc áp dụng các biện pháp thích ứng điều chỉnh lịch thời vụ, điều chỉnh kỹ thuật và phòng ngừa rủi ro có ảnh hưởng tích cực đến các mức hiệu quả này. Tuy nhiên, biện pháp đa dạng hóa sản xuất có ảnh hưởng nghịch biến đến hiệu quả nuôi tôm. Nghiên cứu này đã chứng tỏ rằng những hộ nuôi tôm trên địa bàn có mức dễ bị tổn thương do BĐKH càng cao thì hiệu quả nuôi tôm càng giảm. Bên cạnh đó, các biến số trình độ học vấn, khuyến nông, tiếp cận thông tin về BĐKH đều có ảnh hưởng đồng biến đến hiệu quả nuôi tôm. Ngoài ra, diện tích nuôi tôm có ảnh hưởng nghịch biến đến hiệu quả nuôi tôm. Đây là những căn cứ quan trọng nhằm đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất cho các hộ nuôi tôm trên địa bàn nghiên cứu.
3.7. Một số giải pháp nâng cao khả năng thích ứng biến đổi khí hậu và hiệu quả sản xuất tôm biển
Giải pháp được đề xuất căn cứ vào phân tích thực trạng thích ứng với biến đổi khí hậu của hộ nuôi tôm biển, đánh giá tính dễ bị tổn thương của hộ nuôi tôm do biến đổi khí hậu, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến các quyết định áp dụng biện pháp thích ứng biến đổi khí hậu, đánh giá hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của hộ nuôi tôm. Giải pháp đưa ra cần phải phù hợp với đối tượng nghiên cứu, hỗ trợ cho các hộ nuôi tôm nói riêng và ngành nuôi tôm nói chung phát triển ổn định, thích ứng tốt với biến đổi khí hậu trong ngắn hạn và dài hạn, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và tiếp tục giữ vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Trước hết, các giải pháp cần ưu tiên cho các hộ nuôi tôm thuộc đối tượng có tính dễ bị tổn thương cao, là những hộ có đặc điểm như ít kinh nghiệm sản xuất, trình độ học vấn thấp, quy mô hộ lớn, hộ nghèo và cận nghèo, có diện tích đất đai thấp, có khoảng cách đến bờ biển khá gần. Sau đó, các giải pháp này sẽ tiếp tục mở rộng cho các đối tượng hộ nuôi tôm khác trên địa bàn toàn tỉnh.