Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.6. Thảo luận
3.6.2. Cấu trúc của những kiểu QXTV rừng
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng kết cấu N, G và M đối với 6 kiểu QXTV rừng thay đổi tuỳ theo nhóm D và lớp H. Ở cả 6 kiểu QXTV rừng này, mật độ quần thụ đều giảm dần từ nhóm D < 10 cm và lớp H < 10 m đến nhóm D > 64 cm và lớp
H > 25 m. Trái lại, hai đại lượng G và M đều nhận giá trị cao nhất ở nhóm D = 20 – 40 cm và lớp H = 15 – 25 m. Nói chung, tỷ lệ N%, G% và M% đều đạt cao nhất ở nhóm D = 20 - 40 cm và lớp H > 25 m; thấp nhất ở nhóm D < 20 cm và lớp H < 15 m. Những loài cây gỗ ưu thế và đồng ưu thế đóng góp N, G và M ở mọi nhóm D và lớp H; trong đó tỷ lệ gia tăng dần từ nhóm D < 20 cm và lớp H < 15 m đến nhóm D
> 40 cm và lớp H > 25 m.
Phân bố N/D đối với 6 kiểu QXTV rừng này đều có dạng giảm theo hình chữ
“J” ngược từ cấp D < 10 cm đến cấp D > 64 cm. Tỷ lệ giảm số cây sau mỗi cấp D thay đổi tùy theo kiểu QXTV rừng; trong đó tỷ lệ giảm số cây thấp nhất là kiểu quần xã họ Sao Dầu – họ Cầy – họ Cỏ roi ngựa (-5,8%), cao nhất là kiểu quần xã họ Sao Dầu - họ Hoa hồng – họ Bồ hòn (-13,2%). Phân bố N/D có dạng giảm theo hình chữ
“J” ngược phản ánh những QXTV rừng này đã phát triển đến giai đoạn ổn định. Nhận định này dựa trên cơ sở là số cây gỗ già cỗi chết đi sẽ được thay thế bởi những thế hệ cây gỗ có kích thước nhỏ hơn. Phân bố N/H đối với 6 kiểu QXTV rừng này đều có dạng phân bố một đỉnh; trong đó số cây tập trung nhiều nhất ở cấp H = 14 m.
Phân tích lịch sử kinh doanh rừng tại khu vực nghiên cứu cho thấy, từ thập niên 1980 - 1990, kiểu rừng này đã được đưa vào khai thác chọn với cường độ từ trung bình đến cao. Từ năm 1990 trở lại đây, kiểu rừng này đã không được khai thác gỗ và chuyển vào giai đoạn nuôi dưỡng. Như vậy, sau khoảng 25 năm, nhiều thế hệ cây gỗ non đã phục hồi dưới tán rừng. Vì thế, phân bố N/D đối với những kiểu QXTV rừng này đã biến đổi tương tự như rừng tự nhiên hỗn loài nguyên sinh.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Trương (1984) cho thấy phần lớn số cây gỗ của rừng tự nhiên hỗn loài nhiệt đới ở Việt Nam phân bố ở lớp H = 15 – 20 m. Theo Nguyễn Văn Thêm (1992), đối với kiểu Rkx ở tỉnh Đồng Nai, Dầu song nàng phân bố ở mọi cấp D và cấp H; trong đó tỷ lệ đóng góp cao nhất ở những cấp D > 40 cm và cấp H > 20 m. Khi nghiên cứu về rừng mưa nhiệt đới, Whitmore (1998) đã chỉ ra rằng mật độ cây gỗ ở rừng nguyên sinh nhiệt đới dao động từ 300 – 700 cây/ha. Theo Vũ Mạnh (2017), đối với kiểu Rkx tại khu vực Nam Cát Tiên thuộc tỉnh Đồng Nai, những loài cây gỗ của họ Sao Dầu chiếm ưu thế về N, G và M ở mọi cấp D và cấp
H. Nhiều nhà lâm học (Nguyễn Văn Trương, 1984; Whitmore, 1998; Kimmins, 1998; Thái Văn Trừng, 1999) cũng đã chi ra rằng, khi rừng tự nhiên hỗn loài nhiệt đới đã phát triển đến giai đoạn ổn định với điều kiện môi trường, thì phân bố N/D có dạng giảm theo hình chữ “J” ngược. Tương tự, phân bố N/H có dạng 1 đỉnh bất đối xứng; trong đó số cây thường xuất hiện nhiều nhất ở cấp H thứ nhất hoặc thứ 2. Hiện tượng này cũng tồn tại đối với 6 kiểu QXTV rừng thuộc Rkx tại khu vực Tân Phú.
Kiểu phân bố N/D có dạng giảm theo hình chữ “J” ngược phản ánh những QXTV rừng được hình thành từ nhiều loài cây gỗ với kích thước khác nhau và chúng tái sinh liên tục dưới tán rừng. Đặc tính này chỉ xuất hiện rõ rệt trong giai đoạn cuối của chuỗi diễn thế tiến về cao đỉnh (Nguyễn Văn Trương, 1984; Thái Văn Trừng, 1999).
Nói chung, cấu trúc của những kiểu QXTV rừng thuộc kiểu Rkx tại khu vực Tân Phú thuộc tỉnh Đồng Nai là không thuần nhất theo không gian đứng và ngang.
Hiện tượng này được giải thích là do rừng không chỉ được hình thành bởi những loài cây gỗ có kích thước nhỏ và nhỡ (Cuống vàng, Cò ke, Bưởi bung ít gân…), mà còn cả những cá thể non của những loài cây gỗ có kích thước lớn của họ Sao Dầu (Dầu song nàng, Dầu con rái, Sao đen, Sến mủ, Vên vên) và những loài cây gỗ khác (Bằng lăng, Cám, Cầy, Giên đỏ, Trường…). Ngoài ra, những hoạt động lâm sinh trong quá khứ cũng làm biến đổi cấu trúc rừng.
Tính phức tạp về cấu trúc phản ánh biến động về N, S, H và G của quần thụ.
Kết quả nghiên cứu đã chứng tỏ rằng tính phức tạp về cấu trúc thay đổi tùy theo những kiểu QXTV rừng. Về cơ bản, sự gia tăng các đặc tính của quần thụ (N, S, D, H, G, M và ST) đều dẫn đến sự gia tăng chỉ số SCI. Kiểu quần xã họ Sao Dầu – họ Đậu – họ Bồ hòn có cấu trúc phức tạp nhất (SCI = 1,16); thấp nhất là kiểu quần xã họ Sao Dầu - họ Hoa hồng – họ Bồ hòn (SCI = 0,29).
Kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng chỉ số hỗn giao (HG) thay đổi tùy theo kiểu QXTV rừng. Chỉ số HG nhận giá trị cao nhất ở kiểu quần xã họ Sao Dầu – họ Cầy – họ Cỏ roi ngựa (0,256); kế đến là kiểu quần xã họ Sao Dầu – họ Côm – họ Cầy (0,243); thấp nhất ở kiểu quần xã họ Sao Dầu - họ Hoa hồng – họ Bồ hòn (0,170).
Mức độ cạnh tranh tán của những cây gỗ cũng thay đổi tùy theo kiểu QXTV rừng. Chỉ số CCI xảy ra mạnh nhất đối với kiểu quần xã họ Sao Dầu – họ Đậu – họ Bồ hòn (1,71); kế đến ở kiểu quần xã họ Sao Dầu – họ Cầy – họ Cỏ roi ngựa (1,51);
thấp nhất ở kiểu quần xã họ Sao Dầu - họ Hoa hồng – họ Bồ hòn (1,07). Chỉ số CCI đối với 6 kiểu QXTV rừng thay đổi tùy theo cấp H. Ở cả 6 kiểu QXTV rừng, chỉ số CCI gia tăng dần từ cấp H < 10 m và đạt cao nhất ở cấp H = 14 m; sau đó giảm dần đến cấp H > 30 m. Hiện tượng này xảy ra là do số cây trong cả 6 kiểu QXTV rừng này đều tập trung nhiều nhất ở cấp H = 14 m.
Sự che phủ mặt đất bởi tán cây gỗ cũng thay đổi tùy theo kiểu QXTV rừng.
Tán cây gỗ ở kiểu quần xã họ Sao Dầu – họ Cầy – họ Cỏ roi ngựa và kiểu quần xã họ Sao Dầu – họ Đậu – họ Bồ hòn che phủ hoàn toàn diện tích đất rừng từ cấp H = 22 m. Trái lại, tán cây gỗ ở bốn kiểu QXTV rừng còn lại chỉ che phủ kín mặt đất từ cấp H ≥ 26 m. Theo Nguyễn Văn Trương (1984), tán rừng tự nhiên hỗn loài nhiệt đới ở giai đoạn ổn định che phủ kín mặt đất từ cấp H > 20 m. Nói chung, sự gia tăng các đặc tính của quần thụ (N, S, D, H, G, M và ST) đều dẫn đến sự gia tăng chỉ số CCI.
Nói chung, cấu trúc của 6 kiểu QXTV này là khác nhau. Kết quả phân tích cấu trúc của 6 kiểu Rkx mang lại những ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. Về lý luận, những thông tin về cấu trúc quần thụ là cơ sở để phân loại rừng và phân tích tính không thuần nhất của kiểu Rkx theo chiều đứng và ngang. Về thực tiễn, những thông tin về cấu trúc của 6 kiểu QXTV rừng này là cơ sở để xây dựng những chỉ tiêu kỹ thuật trong khai thác –tái sinh và nuôi rừng đối với kiểu rừng này ở những khu vực khác thuộc tỉnh Đồng Nai.