• Tidak ada hasil yang ditemukan

Bản chất, nội dung và kỹ thuật quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân 1. Bản chất của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân

Xét về bản chất, quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân là việc xác định chủ thể thứ hai có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội đã đƣợc thực hiện bởi chủ thể thứ nhất là con ngƣời. “Theo đó, qui định trách nhiệm hình sự của pháp nhân không có nghĩa là qui định loại tội phạm thứ hai - tội phạm có chủ thể thực hiện là pháp nhân bên cạnh tội phạm có chủ thể thực hiện là con người đã được qui định.”3 Trên thực tế, khi quy định hay không quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, ―sự kiện phạm tội‖ vẫn chỉ là một. Đó là hành vi do con ngƣời thực hiện và bị pháp luật hình sự xác định là tội phạm. Việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân không làm phát sinh ―sự kiện phạm tội thứ hai‖ mà chỉ làm phát sịnh chủ thể thứ hai phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với chủ thể thứ nhất là con ngƣời về cùng một ―sự kiện phạm tội‖ mà con ngƣời đã thực hiện. Nhƣ vậy, hành vi phạm tội luôn chỉ là một hành vi phạm tội và chủ thể thực hiện là con ngƣời. Tuy nhiên, khi pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội do con ngƣời thực hiện vì thỏa mãn các điều kiện phải chịu trách nhiệm hình sự

1 Tờ trính Về dự án Bộ luật Hính sự (sửa đổi) của Chình phủ gửi Quốc hội tháng 4/2015, tr. 28.

2 Xem: Bản án sơ thẩm số 02/2020/HS-ST ngày 14 tháng 01 năm 2020 của TAND tỉnh Phú Thọ; bản án phúc thẩm số 350/2020/HS-PT ngày 13 tháng 7 năm 2020 của TANDCC tại Hà Nội.

3 Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) (2019), Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại – Nhận thức cần thống nhất?, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội, tr. 18.

191

thí pháp nhân cũng có thể bị coi là chủ thể đã thực hiện hành vi phạm tội nhƣng chỉ là chủ thể ảo còn chủ thể thực vẫn là con ngƣời. Nhƣ vậy, tôi phạm vẫn chỉ là một và có hai chủ thể thực hiện – chủ thể thực và chủ thể ảo. Trong đó, pháp nhân chỉ là chủ thể ảo, không thực sự thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, mới có vấn đề đƣợc đặt ra là phải “…

giải quyết những vướng mắc về lý luận trong việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với … pháp nhân” . 4 Từ đó, các học thuyết về trách nhiệm hình sự của pháp nhân đã ra đời để giải thích pháp nhân vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự mặc dù không thực hiện hành vi phạm tội. Đó là thuyết trách nhiệm thay thế (Theory of Vicarious liability);

thuyết đồng nhất trách nhiệm (Theory of Identification liability) và thuyết văn hóa pháp nhân (Theory of Culture …).5

Nhƣ vậy, cơ sở của trách nhiệm hình sự của pháp nhân không phải là hành vi phạm tội do pháp nhân thực hiện và độc lập với hành vi phạm tội do con ngƣời thực hiện vì trên thực tế không có hành vi phạm tội độc lập của pháp nhân mà chỉ có duy nhất hành vi phạm tội do con ngƣời thực hiện và trong trƣờng hợp nhất định pháp nhân cũng có thể bị coi là đã thực hiện hành vi phạm tội này. Đó là trƣờng hợp pháp nhân có quan hệ đặc biệt với ngƣời phạm tội và hành vi phạm tội nên việc quy kết trách nhiệm hình sự cho pháp nhân về hành vi phạm tội của con ngƣời là ―hợp lý‖,6 là cần thiết. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân, theo đó là trách nhiệm hình sự mở rộng trong mối quan hệ với trách nhiệm sự của con ngƣời đối với cùng hành vi phạm tội do con ngƣời thực hiện.7 Trách

4 Trần Văn Độ (2011), Các học thuyết về cơ sở trách nhiệm hình sự của pháp nhân, tạp chì Nhà nƣớc và pháp luật, số 6, tr. 45.

5 Về các học thuyết này, xem: Trần Văn Độ (2011), tlđd.

6 ―Quy kết hợp lý‖ trách nhiệm hình sự cho pháp nhân là theo cách giải thích trong phán quyết của Tòa án tối cao Hà Lan ngày 21 tháng 10 năm 2003 - Supreme Court, 21 October 2003, NJ 2006/328 (Drijfmest-arrest). Về vấn đề này, xem thêm: Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), sđd., tr. 226.

7 Về quan điểm này, có thể tham khảo: Thomas Britz, Trách nhiệm hình sự mở rộng của pháp nhân, (bản điện tử, tiếng Đức) đƣợc đăng tại: http://www.roedl.de/themen/tschechien/2014-10/erweiterte- strafrechtliche-verantwortlichkeit- juristischer-personen, truy cập ngày 23/12/2015; Lê Văn Cảm (2016), Khái niệm tội phạm (Điều 8) và Đồng phạm (Điều 17) trong BLHS năm 2015: Nghiên cứu vấn đề đối với pháp nhân thương mại và đề xuất hoàn thiện các điều luật này, Kỷ yếu Toạ đàm khoa học: Trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thƣơng mại trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Uỷ ban Tƣ pháp của Quốc hội; Nguyễn Ngọc Hòa (2016), Khái niệm tội phạm và việc qui định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015, tạp chí Luật học, số 2; Nguyễn Văn Hƣơng (2016), Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo Bộ luật Hình sự năm 2015, tạp chí Luật học, số 4;

Lƣu Hải Yến (2016), Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo qui định của Bộ luật Hình sự năm 2015, tạp chí Luật học, Số đặc biệt về Bộ luật Hình sự năm 2015; Nguyễn Ngọc Hòa (2017), Tính thống nhất giữa các qui định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự năm 2015, tạp chí Luật học, số 3.

192

nhiệm hình sự theo quan niệm truyền thống đƣợc đặt ra cho con ngƣời là chủ thể đã thực hiện hành vi phạm tội và theo quan niệm mới, trách nhiệm này còn có thể đƣợc mở rộng cho chủ thể thứ hai là pháp nhân. Quy định trách nhiệm hình sự cho pháp nhân là quy định các trƣờng hợp đƣợc phép mở rộng trách nhiệm hình sự (đối với hành vi phạm tội do con ngƣời thực hiện) cho pháp nhân.

2.2. Nội dung và kỹ thuật quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân

Quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân là quy định các trƣờng hợp cho phép mở rộng trách nhiệm hình sự cho pháp nhân hay nói cách khác là quy định các điều kiện phải chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân và cùng với đó là quy định về phạm vi các pháp nhân có thể là chủ thể của trách nhiệm hình sự, về phạm vi các tội mà chủ thể này có thể phải chịu trách nhiệm hình sự cũng nhƣ về hình phạt và các biện pháp pháp luật hình sự khác có thể áp dụng cho pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự.

Về lý thuyết, các trƣờng hợp pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự là các trƣờng hợp pháp nhân có quan hệ đặc biệt với hành vi phạm tội cũng nhƣ với ngƣời thực hiện nó nên trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội này có thể đƣợc quy mở rộng cho pháp nhân. Đó là các trƣờng hợp sau:

- Thứ nhất, hành vi phạm tội đƣợc (ngƣời) thực hiện là nhân danh pháp nhân và vì lợi ích của pháp nhân. Ví dụ: Hành vi buôn bán trái phép qua biên giới (buôn lậu) để mang lãi về cho doanh nghiệp của một số thành viên của doanh nghiệp theo chỉ đạo của Giám đốc.

Ở đây, dấu hiệu “nhân danh pháp nhân” đòi hỏi ngƣời thực hiện hành vi phạm tội phải có vị trì lãnh đạo nhất định trong pháp nhân để có thể thay mặt pháp nhân và do vậy hành vi của họ có thể đƣợc coi là hành vi của pháp nhân; dấu hiệu “vì lợi ích của pháp nhân” đòi hỏi hành vi phạm tội đƣợc thực hiện là có lợi hoặc nhằm có lợi cho pháp nhân.

Qua việc hành vi tội phạm đƣợc thực hiện, pháp nhân có thể nhận (hoặc giữ lại) đƣợc lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần hoặc lợi thế nhất định trong hoạt động của mình. Hai dấu hiệu “nhân danh pháp nhân”“vì lợi ích của pháp nhân” thể hiện quan hệ đặc biệt giữa pháp nhân với hành vi phạm tội cũng nhƣ với ngƣời thực hiện hành vi phạm tội đó.

Trong các hành vi phạm tội thỏa mãn hai dấu hiệu “nhân danh pháp nhân”“vì

193

lợi ich của pháp nhân” có dạng hành vi phạm tội mặc nhiên đã có hai dấu hiệu này. Đó là hành vi vi phạm nghĩa vụ pháp lý được quy định trực tiếp cho pháp nhân nhƣ hành vi phạm tội trốn thuế hoặc trốn đóng bảo hiểm xã hội cho ngƣời lao động của doanh nghiệp v.v.. Những hành vi phạm tội này chỉ có thể do ngƣời có tƣ cách “nhân danh pháp nhân”

thực hiện và rõ ràng là“vì lợi ích của pháp nhân”. Do có tính chất đặc biệt nhƣ vậy, nên dạng hành vi phạm tội này có thể đƣợc tách thành một trƣờng hợp pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự riêng để khi gặp trƣờng hợp này, cơ quan áp dụng pháp luật hình sự không cần phải chứng minh hai dấu hiệu “nhân danh pháp nhân”“vì lợi ích của pháp nhân”.

- Thứ hai, hành vi phạm tội đƣợc thành viên của pháp nhân thực hiện trong khi tiến hành công việc đƣợc pháp nhân giao và việc xảy ra hành vi phạm tội này có phần lỗi của pháp nhân. Ví dụ: Hành vi gây hoả hoạn dẫn đến chết ngƣời trong khi hàn điện của ngƣời lao động đƣợc doanh nghiệp điều đến sửa chữa cho khách hàng ví đã không tuân thủ qui định về phòng cháy và việc không tuân thủ này có một phần nguyên nhân từ phía doanh nghiệp, trong đó có việc không tập huấn đầy đủ theo qui định cho ngƣời lao động về phòng cháy cũng nhƣ an toàn lao động nói chung. Trong trƣờng hợp này, hành vi phạm tội là do ngƣời của doanh nghiệp thực hiện trong khi tiến hành công việc của doanh nghiệp và hành vi phạm tội đã xảy ra một phần do lỗi của doanh nghiệp trong phòng ngừa tội phạm. Hai dấu hiệu “trong khi tiến hành công việc của pháp nhân”“có phần lỗi của pháp nhân‖ của trƣờng hợp thứ hai này thể hiện rõ quan hệ đặc biệt giữa pháp nhân với hành vi phạm tội cũng nhƣ với ngƣời thực hiện hành vi phạm tội này.8

Ngoài ―điều kiện phải chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân‖ nhƣ trính bày, các nội dung khác cần đƣợc quy định để đảm bảo đủ cơ sở pháp lý cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân là phạm vi các pháp nhân có thể phải chịu trách nhiệm hình sự; phạm vi các tội mà pháp nhân có thể phải chịu trách nhiệm hình sự và các biện pháp trách nhiệm hình sự, trong đó có hính phạt có thể áp dụng cho pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự. Cụ thể:

8 Về trƣờng hợp này, xem thêm: Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) (2019), Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại – Nhận thức cần thống nhất”, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội, tr.26 và tr. 27.

Garis besar

Dokumen terkait