152
13. VỀ GIỚI HẠN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TÀI LIỆU LÀM TỔN HẠI THANH
153
Có tình đến những thực tế đang tồn tại trong xã hội Nga, cần phân biệt hai lĩnh vực chính của việc thu thập và sử dụng tài liệu gây tổn hại thanh danh để giải quyết: 1) các vấn đề chính trị và kinh tế; 2) các nhiệm vụ trinh sát riêng. Trong chính trị, những tài liệu này thƣờng xuyên đƣợc sử dụng để tống tiền các nhân vật của công chúng và trong các chiến dịch bầu cử. Do hành vi xâm hại đến danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp khác đƣợc bảo vệ của ngƣời đó. Về cơ bản, hiệu quả đạt đƣợc thông qua việc thu thập thông tin về đối tƣợng, tạo ra các tình huống chuẩn bị đặc biệt và phổ biến thông tin sai lệch nhằm hạ thấp địa vị xã hội của ngƣời đó. Trƣớc hết, khu vực bầu cử trở thành nơi tung ra tài liệu gây tổn hại thanh danh. Các chuyên gia hiện nay trong lĩnh vực công nghệ chính trị ở trính độ cao nắm vững nghệ thuật làm mất uy tín, hạ nhục và tiêu diệt đối thủ chính trị [2, tr.157]. Việc sử dụng các tài liệu gây tổn hại thanh danh này trong nền kinh tế đƣợc phân biệt theo tình thƣờng xuyên: cạnh tranh trên thị trƣờng tiêu thụ hàng hoá, quảng cáo sai sự thật, huỷ hoại danh tiếng của các cấu trúc tài chính [3].
Cần lƣu ý rằng việc sử dụng các tài liệu gây tổn hại thanh danh nhƣ vậy là không thể chấp nhận đƣợc do thực tế là pháp luật về hoạt động trinh sát, khoản 8, Điều 5 của Luật liên bang ―Về hoạt động trinh sát cấm các cơ quan (quan chức) tiến hành các biện pháp trinh sát vì lợi ích của bất kỳ đảng phái chính trị nào và không đƣợc phép thực hiện hoạt động trinh sát để đạt đƣợc các nhiệm vụ và mục tiêu không đƣợc quy định trong khoản 1, điều 3 của Luật Liên bang về hoạt động trinh sát. Về bản chất, chúng tôi đang phải đối mặt với một số cấm đoán nhất định trong lĩnh vực hoạt động trinh sát. Qua đó chúng tôi hiểu đƣợc giới hạn về thẩm quyền của các cơ quan trinh sát và các chủ thể khác của hoạt động trinh sát, cũng nhƣ giới hạn do nhà lập pháp thiết lập đối với việc thực hiện của những ngƣời không có thẩm quyền [4, tr.157].
Do bản chất nhận thức luận của tài liệu gây tổn hại thanh danh và các khía cạnh đạo đức, việc sử dụng nó trong việc thực thi pháp luật là rất hạn chế. Theo ghi nhận của nhà nghiên cứu về nền tảng đạo đức của hoạt động trinh sát, tác giả A.F. Vozny cho rằng một số đặc điểm của nội dung đạo đức của hoạt động này là do bản chất bí mật của nó, đòi hỏi phải che giấu nội dung thực của một số hành động, bao gồm cả bản chất đạo đức thực sự của chúng [5, tr.243]. Rõ ràng là việc sử dụng các tài liệu đó bao gồm các yếu tố
154
cƣỡng chế hạn chế các quyền hiến định của công dân, nhƣng cho phép đạt đƣợc một mục tiêu có ích cho xã hội. Chúng tôi tin rằng ở khía cạnh này, bản chất vô đạo đức bên ngoài của một số hành động trinh sát nhất định (nghe lén điện thoại, lôi kéo sự tham gia của những ngƣời ẩn danh và hỗ trợ bí mật, v.v.) là không thể tránh khỏi và hoàn toàn có thể chấp nhận đƣợc do có mâu thuẫn giữa các hiện tƣợng pháp lý và các nền tảng đạo đức của xã hội và nhà nƣớc. Đồng thời, về bản chất công khai của hoạt động trinh sát, một tình huống đƣợc xác định rõ ràng trong đó một số hành động trái đạo đức bề ngoài nhất định đƣợc quy định về mặt pháp lý để giải quyết hiệu quả các nhiệm vụ của nhà nƣớc là phòng, chống tội phạm. Điều đặc biệt quan trọng ở đây là cần phải tuân thủ các nguyên tắc luân lý và đạo đức của hoạt động trinh sát. Việc vi phạm nền tảng đạo đức trực tiếp của các cán bộ trinh sát chắc chắn sẽ dẫn đến sự biến dạng nghề nghiệp của họ.
Cần lƣu ý rằng trong một thời gian dài, các tài liệu gây tổn hại thanh danh đã đƣợc sử dụng trong công việc điều tra để giải quyết các vấn đề cụ thể. Việc sử dụng những thông tin nhƣ vậy là có chọn lọc, vì nó cân bằng giữa nguy cơ vi phạm các quyền công dân và con ngƣời trong xã hội Nga. Điều này chủ yếu xác định định nghĩa về các giới hạn sử dụng chúng trong hoạt động trinh sát và thảo luận về khả năng chấp nhận của các phƣơng tiện đó.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rất rõ việc sử dụng các tài liệu gây tổn hại thanh danh nhƣ một động lực để công dân hỗ trợ bí mật với các cơ quan thực hiện hoạt động trinh sát, bằng chứng là công thức của Mỹ về sự thành công của các cơ quan đặc biệt, bao gồm chữ viết tắt "MICE" ( Money - tiền bạc, Ideology - hệ tƣ tƣởng, Compromising - tài liệu gây tổn hại thanh danh, Ego - Bản ngã). Việc sử dụng động cơ hỗ trợ bí mật này phần lớn là do nền tảng pháp lý và đạo đức của một cá nhân, nhóm và quốc gia cụ thể và đã đƣợc sử dụng thành công trong một thời gian dài [6, trg. 33-34], và cũng tím thấy sự hợp nhất ở cấp độ các chỉ thị nội bộ khép kín của Bộ Nội vụ Liên Xô cho đến đầu những năm 90, Thế kỷ XX. Trong khi đó, động cơ này có thể đƣợc tìm thấy trong điều kiện hiện đại, ngay cả khi nó không đƣợc quy định trong các văn bản dƣới luật và bị xã hội và các tổ chức nhân quyền tích cực lên án.
155
Đối với chúng tôi, dƣờng nhƣ ở cấp độ tổ chức và chiến thuật, việc sử dụng các tài liệu gây tổn hại thanh danh có thể đƣợc xây dựng theo thuật toán sau: 1) lựa chọn một đối tƣợng trinh sát quan tâm; 2) tìm kiếm các lỗ hổng thực sự của đối tƣợng; 3) thu thập, xử lý và thực hiện thông tin tạo cơ sở cho các tài liệu gây tổn hại thanh danh; 4) tạo ra một tình huống trinh sát thuận lợi cho việc thực hiện các tài liệu gây tổn hại thanh danh; 5) xác định phƣơng pháp sử dụng tài liệu gây tổn hại thanh danh để giải quyết một nhiệm vụ trinh sát cụ thể.
Tuy nhiên, cần lƣu ý rằng việc sử dụng thông tin gây tổn hại thanh danh là một hình thức cƣỡng chế và có thể trở nên ngắn hạn và không thỏa đáng do sự hiện diện của yếu tố không tự nguyện trong đó, điều này trái với các quy định của pháp luật trinh sát (khoản 1, điều 17 của Luật liên bang về hoạt động trinh sát) và góp phần thúc đẩy một ngƣời tham gia vào bất kỳ tƣơng tác nào với đại diện của các đơn vị trinh sát. Điều này là do thực tế là trong tình huống đang đƣợc xem xét, mong muốn của một ngƣời không phải lúc nào cũng đƣợc bắt đầu bằng việc sử dụng các phƣơng tiện hợp pháp, góp phần thực hiện theo yêu cầu của cán bộ trinh sát để bán các tài liệu, nếu chúng đƣợc công khai rộng rãi trong các phƣơng tiện truyền thông, đội ngũ, gia đính, có thể góp phần làm xấu đi mối quan hệ với những ngƣời quan trọng, mất danh tiếng hoặc mất địa vị xã hội, v.v. Thời gian hỗ trợ trực tiếp phụ thuộc vào mức độ liên quan của các tài liệu và giảm dần khi chúng mất đi ý nghĩa đối với đối tƣợng. Đồng thời, động cơ đƣợc đề cập có thể dẫn đến thông tin sai lệch, xử lý kép, làm sai lệch các tài liệu đƣợc cung cấp mà pháp luật cấm (đoạn 4,5, khoản 8, điều 5 của Luật Liên bang về hoạt động trinh sát).
Vì nội dung của tài liệu gây tổn hại thanh danh là cả thông tin về sự kiện có thật và tài liệu đƣợc chuẩn bị đặc biệt, chúng không thể bị loại trừ hoàn toàn khỏi kho phƣơng tiện để thực hiện trinh sát phòng ngừa trong quá trình giải quyết vấn đề chia cắt các tổ chức tội phạm, "gỡ rối" địa vị của các thủ lĩnh tội phạm và ảnh hƣởng đến đội ngũ đặc biệt, đƣợc tổ chức trong các tổ chức con. Ví dụ, việc đƣa ra các bổ sung vào Bộ luật Hình sự của Georgia (Điều 223.1) và Bộ luật Hình sự của Liên bang Nga (Điều 210.1 ―Việc chiếm giữ vị trí cao nhất trong hệ thống phân cấp tội phạm‖) trên thực tế đã làm cho việc sử dụng video quay các nhà lãnh đạo của hệ thống tội phạm cao nhất liên quan đến vị trí
156
của họ trong môi trƣờng tội phạm để ngăn chặn sự phổ biến của tiểu văn hóa tội phạm trong xã hội.
Việc trính bày quan điểm của tác giả về khả năng sử dụng các tài liệu gây tổn hại thanh danh trong quá trính trinh sát đƣợc cho là không thể chối cãi do thực tế là nó ảnh hƣởng đến vấn đề tƣơng quan của các mục tiêu và phƣơng tiện đƣợc sử dụng trong việc điều chỉnh các quá trình xã hội. Tuy nhiên, theo chúng tôi, cách tiếp cận thực dụng hẹp nhƣ vậy chỉ dựa vào việc tăng hiệu quả đấu tranh chống tội phạm, chắc chắn sẽ ảnh hƣởng đến tính hợp pháp về mặt đạo đức của toàn bộ quá trính. Theo đó, có thể kết luận rằng có thể chấp nhận sử dụng các tài liệu này để giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của hoạt động trinh sát do thực tế là các phƣơng tiện đƣợc đề xuất khá phù hợp cho các mục đìch của hoạt động trinh sát.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Макиавелли Н. Рассуждения о первой декаде Тита Ливия. М., 1997. 70 с.
2. Митрохина Т.Н., Федорова С.А. Компрометирующие материалы в прессе как средство борьбы за политическую власть //Политическая экспертиза:
политекс. Т.5. №3. 2009. С.156-165.
3. Доронин А.И. Бизнес-разведка. 2-е изд., перераб. и доп. М., 2003. 384 с.
4. (Оперативно-розыскная энциклопедия /Авт.–сост. А.Ю.Шумилов., М., 2004. 363 с..
5. Возный А.Ф. Общественность и оперативно-розыскная деятельность //Законность. М. 1999. №3. С.243.
6. Коровин В.В. История отечественных органов безопасности. М., 1998. 675 с.
157