3.1. Lịch sử của vấn đề nghiên cứu
Dƣới góc độ lịch sử, thuật ngữ Nạn nhân học (Victimology) có nguồn gốc từ tiếng Latinh có nghĩa mà vật hoặc ngƣời đƣợc dùng để hiến tế cho một vị thần (Victima), thuật ngữ này chỉ bao hàm ý nghĩa hi sinh chứ không nhất thiết phải bao gồm cả sự đau thƣơng, mất mát của vật hiến tế5. Đến thế kỉ XIX, thuật ngữ nạn nhân (Victim) xuất hiện trên cơ sở chuyển thể từ thuật ngữ vật hiến tế (Victima), đồng thời nó gắn liền với sự mất mát, tổn hại nói chung6. Thuật ngữ Nạn nhân học xuất hiện vào những năm 1940 - 1950, về mặt ngữ nghĩa Nạn nhân học là một từ ghép của hai từ Nạn nhân (Victim) và Khoa học (Logos) trong tiếng Hy Lạp.
Theo Ezzat A. Fattah (2000) những ý niệm đầu tiên về Nạn nhân học không phải xuất phát từ những nhà nghiên cứu mà đến từ những nhà thơ, nhà văn, tiểu thuyết gia nhƣ The Marquis de Sade Franz Werfel, Aldous Huxley, Thomas de Quincey, Khalil Gibran7. Năm 1941, Han von Hentig xuất bản bài nghiên cứu đầu tiên của mính có liên quan đến nạn nhân của tội phạm với tiêu đề "Đánh giá về sự tƣơng tác giữa nạn nhân và hung thủ gây án" (Remarks on the Interaction of the Perpetrator and the Victim), đến năm 1948
5 Basia Spalek (2006), Crime victims: theory, policy and practice, 2nd ed. London: Palgrave Macmillan, p.80.
6 Claire Ferguson & Brent E. Turvey (2009), Victimology: A brief history with an introduction to forensic victimology. In Turvey, B & Petherick, W (Eds.) Forensic victimology: Examining violent crime victims in investigative and legal contexts, 1st Edition. Academic Press, United States of America, p. 1-32.
7 Ezzat A.Fattah (2000), Victimology: Past, Present and Future. Criminologie, 33(1), 17–46.
http://www.jstor.org/stable/42745214
122
ông tiếp tục xuất bản cuốn sách "Tội phạm và nạn nhân của tội phạm" (Criminal and His Victim), trong đó dành một chƣơng để viết về nạn nhân của tội phạm8. Tuy nhiên, thuật ngữ Nạn nhân học vẫn chƣa đƣợc giới thiệu sử dụng vào thời điểm này. Đến năm 1947, Benjamin Mendelsohn lần đầu tiên đƣa ra thuật ngữ Nạn nhân học trong một bài thuyết trính trƣớc Hiệp hội tâm lý trị liệu Rumania9 nhƣng vào thời điểm này thuật ngữ Nạn nhân học vẫn chƣa chình thức đƣợc đề xuất sử dụng.
Ở một nghiên cứu khác Andrew Karmen (2007) cho rằng thuật ngữ Nạn nhân học đã xuất hiện vào năm 1949 trong một cuốn sách viết về những kẻ giết ngƣời của bác sĩ tâm thần pháp y Fredric Wertham, lúc bấy giờ nạn nhân học dùng để mô tả những nạn nhân của tội phạm giết ngƣời10. Tiếp đó vào năm 1956, thuật ngữ Nạn nhân học chính thức đƣợc Benjamin Mendelsohn đề xuất sử dụng trong bài viết "Một nhánh mới của Sinh học - Tâm lý học - Khoa học xã hội, Nạn nhân học" (A New Branch of Bio-Psycho- Social Science, Victimology). Cũng trong bài viết này, Medelsohn gợi ý thành lập một cộng đồng quốc tế nghiên cứu về Nạn nhân học mà ngày nay là Hiệp hội nạn nhân học thế giới (The World Society of Victimology), thành lập một số Viện nghiên cứu về Nạn nhân học và phát hành tạp chí chuyên ngành về Nạn nhân học11. Với những công lao, đóng góp của mình cho sự phát triển của Nạn nhân học, Medelsohn đƣợc coi là "cha đẻ của Nạn nhân học" (Father of Victimology)12. Ngày nay, Nạn nhân học nói chung đƣợc đề cập đến nghiên cứu khoa học về nạn nhân, nạn nhân hoá (Victimization), bao gồm cả mối quan hệ giữa nạn nhân và ngƣời thực hiện tội phạm, quá trính điều tra tội phạm và những vấn đề xã hội khác liên quan đến nạn nhân13.
Từ những năm 1940 đến nay, Nạn nhân học đã có những bƣớc phát triển rất lớn với việc thành lập Hiệp hội Nạn nhân học thế giới vào năm 1979 tại Munich (Đức) mục tiêu là thúc đẩy nghiên cứu về nạn nhân trên thế giới, Hiệp hội đã tổ chức các cuộc hội
8 van Dijk, J. J. M. (1999), Introducing victimology. In J. J. M. van Dijk, R. G. H. van Kaam, & J. Wemmers (Eds.), Caring for crime victims: Selected proceedings of the Ninth International Symposium on Victimology, Amsterdam, August 25-29, 1997 (p. 1-12). Criminal Justice Press.
9 Landau, S. F., & Freeman-Longo, R. E. (1990), Classifying Victims: a Proposed Multidimensional Victimological Typology. International Review of Victimology, 1(3), 267–286, https://doi.org/10.1177/026975809000100304
10 Andrew Karmen (2007), Crime Victims: An Introduction to Victimology, 5th ed. Toronto: Wadsworth. p. 18
11 John P. J. Dussich (2006), tlđd, p. 03
12 John P. J. Dussich (2006), tlđd, p. 01
13 Andrew Karmen (2007), tlđd, p. 20
123
thảo về Nạn nhân học đƣợc tổ chức thƣờng niên quy mô toàn cầu nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của nạn nhân. Đồng thời, Hiệp hội Nạn nhân học thế giới giữ vai trò tƣ vấn viên đặc biệt cho Hội đồng Kinh tế - Xã hội của Liên Hiệp quốc và Hội đồng Châu âu. Ngoài ra, các cơ sở nghiên cứu về Nạn nhân học đƣợc thành lập tại các trƣờng đại học và ấn phẩm học thuật quốc tế về nạn nhân học đƣợc ra đời vào năm 1989 (The International Review of Victimology - Nhà xuất bản SAGE) hiện nay đƣợc coi là ấn phẩm hàng đầu trong nghiên cứu về Nạn nhân học. Những dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của Nạn nhân học trên thế giới đƣợc tóm tắt bằng Bảng 1.
Bảng 1. Tóm tắt những sự kiện quan trọng về quá trình phát triển của Nạn nhân học
Năm Sự kiện
1924 Edwin Sutherland dành một chƣơng trong giáo trính Tội phạm học của mình để trình bày về nạn nhân của tội phạm
1937 Beniamin Mendelsohn công bố nghiên cứu về những kẻ hiếp dâm và nạn nhân của chúng
1941 Hans von Hentig công bố bài nghiên cứu về nạn nhân và tội phạm
1947 Beniamin Mendelsohn đề xuất sử dụng thuật ngữ Nạn nhân học trong bài tạp chí của mình
1948 Hans von Hentig xuất bản cuốn sách Tội phạm và Nạn nhân của tội phạm (Criminal and His victim)
1958
Marvin Wolfgang công bố nghiên cứu thực nghiệm đầu tiên của Nạn nhân học với tiêu đề "Những khuôn mẫu của tội phạm giết ngƣời" (Pantterns in Criminal Homocide) và cho ra đời khái niệm "Nạn nhân thúc đẩy tội phạm"
(victim precipitation)
1963 New Zealand ban hành Luật bồi thƣờng cho nạn nhân của tội phạm (Criminal Compensation Act)
1966 Mỹ tiến hành cuộc điều tra đầu tiên về nạn nhân của tội phạm nhƣng không khai báo
1968 Stephan Schafer phát hành cuốn giáo trính đầu tiên về Nạn nhân học với
124
tiêu đề "Nạn nhân và thủ phạm" (The victim and His criminal)
1972
Ba chƣơng trính trợ giúp nạn nhân đầu tiên đƣợc tiến hành tại St. Louis, Missouri, San Francisco, California và Washington, D. C. Cùng năm Mỹ tiến hành cuộc điều tra quốc gia về nạn nhân của tội phạm đầu tiên (National Criminal Victimization Suvey)
1973 Hội nghị quốc tế đầu tiên về Nạn nhân học diễn ra tại Jerusalem (Israel) 1976 Emilio Viano thành lập tạp chí Victimology - An International Journal (hiện
nay không còn hoạt động)
1979 Hiệp hội Nạn nhân học thế giới đƣợc thành lập tại Munich (Đức)
1981 Tổng thống Mỹ Ronald Reagan tuyên bố tổ chức Tuần lễ quốc gia về quyền của các nạn nhân tội phạm vào tháng Tƣ hàng năm.
1989 Ra đời tạp chí International Review of Victimology (Q1-Scopus) và hiện nay là tạp chì hàng đầu về Nạn nhân học.
2003 Hiệp hội nạn nhân học Mỹ (The American Society of Victimology) đƣợc thành lập
2005 Nhật Bản nội luật hoá các Nguyên tắc Công lý Cơ bản của Liên hợp quốc về Nạn nhân của Tội phạm và Lạm dụng Quyền lực.
Nguồn: John P. J. Dussich (2006); Andrew Karmen (2012:14); Md.Atiqur Rahman (2013).
Tại Việt Nam, Nạn nhân học dƣờng nhƣ là một lĩnh vực ìt đƣợc quan tâm. Cho đến nay, chƣa có những nhà nghiên cứu chuyên về Nạn nhân học, đa phần các nhà nghiên cứu về Tội phạm học cũng đồng thời là nghiên cứu Nạn nhân học (trong đó Nạn nhân học vẫn là thứ yếu). Khi đề cập đến những công trình mang tính mở đầu cho nghiên cứu Nạn nhân học tại Việt Nam có thể đề cập đến công bố nhan đề Một số vấn đề về nạn nhân trong nghiên cứu Tội phạm học của tác giả Trần Hữu Tráng công bố vào năm 1997; Đối với nghiên cứu thực nghiệm mang tính chất Nạn nhân học thì có thể đề cập đến công trình của tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa (1999) nhan đề Sơ bộ tìm hiểu trẻ em bị lạm dụng tình dục tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cho đến nay, những công trình hay sự kiện đánh dấu cho sự phát triển của Nạn nhân học tại Việt Nam hạn chế. Từ luận giải trên có thể
125
thấy, Nạn nhân học vẫn là một lĩnh vực rất tiềm năng cho nghiên cứu về cả lý luận và thực tiễn tại Việt Nam.
3.2. Những trường phái, hướng nghiên cứu chính của Nạn Nhân học
Nhƣ đã đề cập ở phần trƣớc, Nạn nhân học là khoa học nghiên cứu về nạn nhân, nạn nhân hoá, mối quan hệ giữa nạn nhân và thủ phạm, các vấn đề xã hội về nạn nhân...;
trong đó trung tâm của Nạn nhân học chính là vấn đề những tổn hại của các nạn nhân.
Với các cách tiếp cận không giống nhau của các lý thuyết gia đã đƣa đến những trƣờng phái khác nhau trong nghiên cứu Nạn nhân học. Theo Hans von Hentig, Nạn nhân học là một nhánh của Tội phạm học, do đó, trong nghiên cứu Nạn nhân học nên tập trung vào một loại nạn nhân đó là nạn nhân của tội phạm, hƣớng nghiên cứu này đƣợc gọi là Nạn nhân học hình sự (Penal Victimology); Trong nghiên cứu nạn nhân học hình sự, các nhà nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa nạn nhân và tội phạm để giải thích hiện tƣợng tội phạm14. Bên cạnh đó cũng có một hƣớng nghiên cứu khác là Nạn nhân học phổ quát (General Victimology), ngƣời tiên phong của hƣớng nghiên cứu này là Beniamin Mendelsohn, ông cho rằng nghiên cứu về nạn nhân không nên bó hẹp trong nạn nhân của tội phạm mà mọi loại nạn nhân (bao gồm nạn nhân của tội phạm, nạn nhân của môi trƣờng xã hội, tự nhiên...) cũng cần phải quan tâm nghiên cứu15. Ngoài hai trƣờng phái nêu trên hiện nay còn một trƣờng phái nghiên cứu khác là Nạn nhân của sự xâm phạm nhân quyền (bao gồm cả nạn nhân của tội phạm)16. Đại diện cho hƣớng nghiên cứu này là Separovic (1969-1985), Elias Neuman (1985) và Robert Elias (1986), họ đã cùng đóng góp vào định nghĩa nạn nhân của vi phạm nhân quyền đƣợc sử dụng rộng rãi ngày nay.
Nội dung này đƣợc tác giả mô tả thông qua giản đồ tại Hình 1.
Hình 1. Các trường phái Nạn nhân học
Nạn nhân học
14 Miomira Kostić (2010), Victimology; A Contemporary Theoretical Approach to Crime and its Victim, Law and Politics Vol. 8, No1, 2010, p. 65 - 78.
15 van Dijk, J. J. M. (1999), tlđd, p. 3-5.
16 Gerd Ferdinand Kirchhoff (2005), What is Victimology?, Monograph Series No.1, Seibundo Publishing, Japan, p. 47 - 52.
126
Sở dĩ có sự hính thành ba trƣờng phái của Nạn nhân học không chỉ đơn thuần là sự lựa chọn đối tƣợng nghiên cứu, mà nó còn liên quan đến mối quan hệ giữa Nạn nhân học và Tội phạm học. Ví đa phần các lý thuyết gia của Nạn nhân học đều là các nhà nghiên cứu Tội phạm học, do vậy mới nảy sinh quan điểm khác nhau về việc Nạn nhân học độc lập hay là một bộ phận của Tội phạm học17. Nên khi đề cập đến đối tƣợng và trƣờng phái nghiên cứu của Nạn nhân học cần phải quan tâm đến mối tƣơng quan của bộ môn này với khoa học Tội phạm học, nội dung này tác giả biểu diễn thông qua Hình 2.
Hình 2. Tương quan giữa các trường phái nghiên cứu Nạn nhân học với Tội phạm học.
Nạn nhân học hình sự Nạn nhân học phổ quát
Nạn nhân của sự xâm phạm nhân quyền
17 Mehrdad Rayejian Asli (2013), Introduction General Theory of Victimology in Criminal Sciences, International Journal of The Humanities, Vol 20, p. 53-79
Tội phạm học
Nạn nhân
học
Tội phạm học
Nạn nhân học
Tội phạm học Nạn nhân học
Nạn nhân của tội
phạm Nạn nhân học
hính sự
Nghiên cứu nạn nhân của tội phạm
Nạn nhân học phổ quát
Nghiên cứu nạn nhân của mọi tổn thƣơng
Nạn nhân của xâm phạm nhân quyền Nghiên cứu nạn nhân của sự vi phạm quyền con ngƣời (bao gồm nạn nhân của tội phạm)
127
Nguồn: Gerd Ferdinand Kirchhoff (2009)
Từ sự trình bày trên, có thể thấy Nạn nhân học có nhiều trƣờng phái khác nhau và trong mỗi trƣờng phái lại có sự khác biệt về các tiếp cận, phân loại nạn nhân. Hans Von Hentig lý thuyết gia của trƣờng phái Nạn nhân học hình sự đã phát triển một danh mục 13 loại nạn nhân của tội phạm, trong công bố của mình mang tên "Tội phạm và nạn nhân:
Nghiên cứu về sinh vật học - xã hội của tội phạm" (The Criminal and His Victim: Studies in the Sociobiology of Crime) xuất bản vào năm 1948, ông đã phân loại nạn nhân của tội phạm theo các tiêu chí về dân số học, sinh học (ví dụ: nạn nhân là ngƣời trẻ, phụ nữ, ngƣời già, ngƣời nhập cƣ, ngƣời mắc các chứng tâm thần, ngƣời thiểu số và những ngƣời chậm hiểu); Và tiêu chí về mặt tâm lý (Ví dụ: Ngƣời muộn phiền, ngƣời đau khổ, ngƣời phóng đãng, ngƣời cô độc). Ngoài ra, cũng trong công bố này ông dành một chƣơng (từ trang 404 đến 438) để thảo luận về cơ sở lý thuyết liên quan đến sự đóng góp của chính nạn nhân vào quá trình phạm tội và cơ sở phân loại nạn nhân thành 13 loại mà ông đề cập18. Trong khi đó, Mendelsohn đại diện cho trƣờng phái Nạn nhân học phổ quát lại đƣa ra sáu kiểu nạn nhân dựa trên vai trò của chính nạn nhân đối với thiệt hại (bao gồm thiệt hại do tội phạm gây ra): (1) Nạn nhân hoàn toàn vô tội (Completely innocent victim); (2) Nạn nhân do tự mình gây ra (Victim due to ignorance); (3) Nạn nhân tự nguyện (Voluntary victim); (3) Nạn nhân có lỗi nhiều hơn trong việc gây ra tội phạm (Victim more guilty than the offender); Nạn nhân tội lỗi nhất (Most guilty victim); (6) Nạn nhân mô phỏng hoặc nạn nhân tƣởng tƣợng (Simulating or imaginary victim)19. Bên cạnh đó còn một số cách phân loại khác nhƣ cách phân loại của Stephen Schafer (bảy loại) dựa trên lý thuyết về nạn nhân thúc đẩy tội phạm (Victim precipitation) và trách nhiệm của nạn nhân đối với tội phạm hoặc Marvin E.Wolfgang lại phân loại thành nạn nhân sơ cấp, nạn nhân thứ cấp và nạn nhân thứ ba, nạn nhân tƣơng hỗ20. Nhƣng dù có cách phân loại và tiếp cận khác nhau nhƣ thế nào, các nhà Nạn nhân học cũng xoay quanh ba nhóm đối
18 Leah E. Daigle (2018), Victimology (2nd ed.). Thousand Oaks, CA: Sage Publishing.
19 Robert J. Meadows (2007), Understand Violence and Victimizations, 4th ed. Upper Saddle River, NJ: Prentice Hall, p. 22.
20 Landau, S. F., & Freeman-Longo, R. E. (1990), tlđd, p. 268-269
128
tƣợng nghiên cứu chính là: Quá trình nạn nhân hoá; Nạn nhân; Nạn nhân trong hệ thống tƣ pháp. Các nhóm đối tƣợng nghiên cứu của Nạn nhân học đƣợc thể hiện ở Bảng 2.
Bảng 2. Ba nhóm đối tượng nghiên cứu chính của Nạn nhân học Quá trình nạn nhân hoá
(Victimization) Nạn nhân Nạn nhân trong hệ thống tƣ pháp - Quá trình trở thành nạn
nhân;
- Các kiểu mẫu;
- Tần suất;
- Xu hƣớng;
- Sự phản ứng trƣớc nguy cơ nạn nhân hoá;
- Hậu quả của việc nạn nhân hoá;
- Nỗi sợ trở thành nạn nhân.
- Tính chọn lọc;
- Các đặc trƣng của nạn nhân;
- Các kiểu loại (Typology);
- Mối quan hệ giữa nạn nhân - thủ phạm;
- Vai trò của nạn nhân đối với tội phạm;
- Các quan niệm và thái độ của nạn nhân;
- Nhiều lần là nạn nhân (sự lặp lại)
- Sự biến đổi từ nạn nhân thành thủ phạm.
- Nhận thức của nạn nhân về hệ thống tƣ pháp;
- Vai trò của nạn nhân trong hệ thống tƣ pháp;
- Vai trò của nạn nhân trong phòng, chống tội phạm;
- Mối quan hệ của nạn nhân và các thành tố của hệ thống tƣ pháp;
- Các quyền và nghĩa vụ của nạn nhân;
- Dịch vụ trợ giúp nạn nhân;
- Đền bù cho nạn nhân Nguồn: Ezzat A.Fattah (1981:78), Mehrdad Rayejian Asli (2013)
3.3. Tình hình nghiên cứu về nạn nhân tại Việt Nam và một số khuyến nghị
Nhƣ tác giả đã trính bày, Nạn nhân học là một lĩnh vực còn nhiều bỏ ngỏ ở Việt Nam. Để đánh giá tình hình nghiên cứu tại Việt Nam tác giả đã tra soát thông tin tại các thƣ viện điện tử của những trung tâm đào tạo luật lớn (Trƣờng đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Đại học QGHN, Trƣờng đại học Luật - Đại học Huế và Trƣờng đại học Luật TP. HCM). Ngoài ra, tác giả còn tìm kiếm trên một số tạp chí chuyên ngành luật những bài nghiên cứu về Nạn nhân học. Kết quả tra soát đƣợc thể hiện tại Bảng 3. Trong nội
129
dung này tác giả chỉ đề cập những công bố mang tính chất Nạn nhân học (xuất phát từ cơ sở đây là một bộ môn thuộc ngành Khoa học pháp lý)
Bảng 3. Những nghiên cứu về Nạn nhân học ở Việt Nam
Năm Tác giả Nhan đề
1997 Trần Hữu Tráng Một số vấn đề về nạn nhân trong nghiên cứu Tội phạm học
1999 Nguyễn Xuân Nghĩa Sơ bộ tìm hiểu trẻ em bị lạm dụng tình dục tại Thành phố Hồ Chí Minh
2000 Trần Hữu Tráng Nạn nhân học trong Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
2005 Dƣơng Tuyết Miên Nạn nhân của tội phạm dƣới góc độ tội phạm học
2010 Trần Hữu Tráng Vấn đề nạn nhân của tội phạm
2010 Hoàng Tuấn Anh Một số vấn đề về nạn nhân của tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em theo luật pháp quốc tế 2010 Dƣơng Tuyết Miên Giáo trình Tội phạm học - Chƣơng 8 Nạn nhân
của tội phạm
2011 Trần Hữu Tráng Nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm 2011 Trần Hữu Tráng Nạn nhân của tội phạm
2012 Trần Hữu Tráng Bảo vệ quyền con ngƣời của nạn nhân của tội phạm
2012 Trần Hữu Tráng Bảo vệ và trợ giúp nạn nhân của tội phạm 2014 Phan Văn Thịnh Bạo lực gia đính - nhìn từ góc độ nạn nhân 2017 Trần Văn Thƣởng Giải pháp phòng ngừa tội xâm phạm tình dục
trẻ em từ yếu tố nạn nhân 2018 Nguyễn Khắc Hải Nạn nhân của tội phạm 2018 Lê Minh Tiến Tổng quan về nạn nhân học
2019 Lê Lan Chi Bảo đảm quyền của nạn nhân tội phạm và một