• Tidak ada hasil yang ditemukan

Mối quan hệ trong việc cấu thành tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự Tính chất, mức độ nghiêm trọng qua định lượng tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát

Tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố cấu thành tội phạm. Nghiên cứu trong khoa học pháp lý hính sự cho rằng, đây là ―quan hệ giữa hiện tượng khách quan với thể hiện đặc trưng hiện tượng đó trong luật33. Cấu thành tội phạm trên phƣơng diện lý luận và thực tiễn đều không thể hiện những yếu tố phong phú của tội phạm mà chỉ là ―các yếu tố cần và đủ để khẳng định hành vi có tội hay không và phân biệt tội đó với các tội khác‖.34 Các yếu tố này thƣờng đƣợc đề cập, ghi nhận dựa trên đặc điểm chủ thể, khách thể, mặt chủ quan và khách quan của tội phạm.

TS. LS., Đoàn Luật sƣ Thành phố Hồ Chí Minh; Email: [email protected]

33 Viện nghiên cứu Nhà nƣớc và pháp luật, Tội phạm học, Luật hình sự và Tố tụng hình sự Việt Nam, 1995 Nxb.

Chính trị quốc gia (HN), tr. 159

34 Viện nghiên cứu Nhà nƣớc và pháp luật, Tlđd (1), tr. 159

37

Đối với nhóm tội phạm tham nhũng kinh tế khách thể bị xâm hại là trật tự, chuẩn mực quản lý kinh tế, quyền sở hữu tài sản của Nhà nƣớc, tổ chức và cá nhân kinh doanh đƣợc pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ. Mặt chủ quan của tội phạm là những vụ lợi tài sản thể hiện thông qua các hành vi gian dối, sai phạm trong hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nƣớc, hoạt động đầu tƣ, kinh doanh thu lợi nhuận. Trƣờng hợp ngƣời phạm tội không trực tiếp chiếm đoạt tài sản nhƣng ―tiếp tay‖ gây ra những thất thoát, mất mát tài sản35 thí tùy vào động cơ, mục đìch, tình chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, việc xác định tội danh và hình phạt vẫn đƣợc đặt ra để xử lý trách nhiệm hình sự, củng cố các quan hệ, trật tự kinh tế. Song khó khăn hiện nay theo đánh giá ―một số nền tài phán theo hệ thống dân luật, công tố viên hoặc thẩm phán phong toả tài sản dựa trên sự cần thiết phải bảo vệ chứng cứ hoặc tránh bị tẩu tán những tài sản là đối tượng tịch thu‖.36 Điều này đặt ra những thách thức cho các nhà làm luật trọng việc thiết lập cơ chế giúp ngƣời phạm tội hoặc gia đính của họ tự giác khắc phục bằng tài sản để giảm nhẹ tội phạm.

Nhƣ vậy, mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản trái ý chí của chủ sở hữu, chủ thể quản lý tài sản đƣợc quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự ngƣời vi phạm phải gánh chịu cả trách nhiệm hình sự và dân sự (Quy định này tƣơng tự nhƣ Điều 13 Luật Hình sự Trung Quốc năm 1979 đƣợc sửa đổi bổ sung năm 1997. Theo đó, các hành vi xâm phạm tài sản thuộc sở hữu Nhà nƣớc hoặc tài sản thuộc sở hữu chung của quần chúng lao động; xâm phạm tài sản thuộc sở hữu tƣ nhân của công dân nếu là tội phạm theo quy định của pháp luật thì phải xử lý hình sự37). Sự liên hệ của nghiên cứu này còn có ý nghĩa đánh giá cấu thành tội phạm, là căn cứ để phân định những hành vi sai phạm ghi nhận theo luật hình sự Việt Nam và các nƣớc (Điều 2 Bộ Luật Hình sự Việt Nam và Phần 1 Luật Hình sự Đức).38 Đồng nghĩa rằng, chỉ có những hành vi phạm tội đƣợc Luật

35 Ví dụ: Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nƣớc, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp (Điều 179 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017)

36 Jean-Pierre Brun, Larissa Gray, Clive Scott, Kevin M. Stephenson, Asset recovery handbook: A guide for practitioners, The International Bank for Reconstruction and Development / The World Bank, tr. 77

37 Xem: Criminal Law of the People‘s Republic China,

https://www.fmprc.gov.cn/ce/cgvienna/eng/dbtyw/jdwt/crimelaw/t209043.htm, truy cập ngày 3/2/2022

38 Geman Criminal Code 1998, https://www.gesetze-im-internet.de/englisch_stgb/englisch_stgb.html#p0015, truy cập ngày 3/2/2022

38

Hình sự Việt Nam quy định khi đó mới xử lý theo trình tự tố tụng hình sự. Điều này hoàn toàn khác biệt với các hành vi gian dối trong kinh doanh nhƣng chƣa đến mức cấu thành tội phạm do hành vi ―nguy hiểm chưa đáng kể39 cần đƣợc các cơ quan tố tụng hình sự nhận diện trong quá trình xử lý tội phạm.

1.2. Thời điểm cấu thành tội phạm

Tội phạm cấu thành từ thời điểm nào cần đƣợc nghiêm túc phân tìch để làm rõ.

Đây là vấn đề gây nhiều tranh cãi trong thực tiễn áp dụng. Từ đó, vận dụng các biện pháp tƣ pháp (tịch thu vật tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại) đƣợc các nhà làm luật cho phép để ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các trách nhiệm, nhất là khi xem xét tội phạm tham nhũng kinh tế vốn dĩ các sai phạm thƣờng kéo dài, thủ đoạn tinh vi khi cơ chế quản lý kinh tế chuyển đổi, khó phát hiện kịp thời.

Thứ nhất, tội phạm tham nhũng kinh tế đìch đến vẫn là các hành vi vụ lợi tài sản, song theo tác giả điều này không đồng nghĩa rằng, chỉ khi tài sản đó đƣợc chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác trên thực tế làm thay đổi tƣ cách chủ sở hữu hợp pháp mới cấu thành tội phạm mà phải mang các ―dấu hiệu tính đặc trưng cho tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự‖ nhƣ khoa học pháp luật hính sự có nêu40. Tùy từng dạng tài sản và hính thức pháp lý của giao dịch có liên quan đến tài sản đó, việc xác định thời điểm cấu thành tội phạm vẫn có những khác biệt. Điều này cũng dễ gây những nhầm lẫn trong nhận thức cũng nhƣ trong thực tiễn hoạt động tố tụng hính sự, nhất là trong các vụ án hính sự, tội phạm luôn có ý thức duy trí thực hiện xác lập các giao dịch trong trạng thái bính thƣờng để tránh né pháp luật cho đến khi bị phát hiện sai phạm.

Ví dụ: Theo Bản án số 79/2019/HS-PT ngày 06/03/2019 xét xử về tội ―Vi phạm quy định cho vay trong hoạt động của các tổ chức tìn dụng‖, Toà án nhân dân cấp cao tại TP. HCM đã tuyên nhƣ sau: Trong thời gian từ ngày 31/3/2009 đến ngày 8/6/2010 Trần Văn BC3 đại diện cho Ngân hàng X Nam Hoa ký 05 hợp đồng tìn dụng với Công ty Đ

39 Khoa học pháp luật hình sự dựa và các giới hạn này nhƣ một cách để phân định tội phạm với hành vi vi phạm khác. Theo đó, tội phạm phải là những hành vi vi phạm có tính nguy hiểm cho xã hội ―ở mức độ đáng kể‖ cần phải áp dụng các biện pháp trừng trị nghiêm khắc. Xem thêm: Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), 2020, Nxb. Công an nhân dân, tr. 76

40 Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Tlđd (6), tr. 86

39

của Trần Thị Minh U, không đúng quy định nhƣng có ba hợp đồng đã tất toán trƣớc thời gian khởi tố vụ án nên cơ quan điều tra chỉ xem xét hành vi mà không xác định hậu quả thiệt hại. Riêng hợp các Hợp đồng tìn dụng số: 200900066PN/HĐTD ngày 14/4/2009 và Hợp đồng tìn dụng số 201000103/HĐTD ngày 08/6/2010 đối trừ số tiền còn dƣ nợ với giá trị tài sản đảm bảo còn lại của Công ty Đ thí thiệt hại của Ngân hàng X chi nhánh Nam Hoa là 64.194.072.070 đồng tiền gốc và 154.528.406.692 đồng tiền lãi. Từ những nhận định với tính tiết vụ án này, Tòa án tuyên bố các bị cáo phạm tội danh nhƣ viện dẫn trên.

Vụ án hình sự phát sinh từ các giao dịch cấp tín dụng (giữa một bên là tổ chức tín dụng với khách hàng là các tổ chức, cá nhân). Thông thƣờng giao dịch này có đặc trƣng là kéo dài cùng với kỳ hạn vay, khó bị phát hiện nếu bên cho vay cấp tín dụng sai quy chế cho vay. Chỉ khi có thiệt hại thực tế (ngƣời vay không trả nợ gốc và lãi đến hạn), qua kiểm tra, rà soát, đối chiếu sổ sách chúng từ, ngƣời phạm tội bỏ trốn, không hợp tác mới bị phát hiện khi đó các cơ quan tố tụng tiến hành các bƣớc xem xét trách nhiệm hình sự.

Ở những tình huống này, thiệt hại xảy ra là yêu cầu tiên quyết để truy cứu trách nhiệm hình sự và xử lý khắc phục các hậu quả sai phạm. Trƣờng hợp không có thiệt hại, những sai phạm nếu có các bên thể xử lý trong phạm vi của cam kết hợp đồng tín dụng và quy định của pháp luật về hoạt động của các tổ chức tín dụng nhằm duy trì sự ổn định của các quan hệ kinh tế.

Đây cũng là lý do dẫn đến các vụ án hình sự xử lý tội phạm thƣờng khó phát hiện, để lại hậu quả nghiêm trọng. Thật vậy, theo vụ án viện dẫn trên, phán quyết của Tòa án xác định hành vi vi phạm cho vay đã đƣợc cấu thành tội phạm ngay khi có quyết định cho vay và đƣợc giải ngân (do không tuân thủ các điều điều kiện cho vay theo quy định của pháp luật ngân hang, vi phạm các quy định của pháp luật hình sự). Cho dù việc hoàn trả tiền vay và tất toán ba hợp đồng tín dụng (trong tổng số năm hợp đồng) đƣợc thực hiện nhƣng đây không phải căn cứ để không xem xét trách nhiệm hình sự đối với các hợp đồng tìn dung đã tất toán này là thuyết phục. Trong đó các yếu tố gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản phải gắn với thiệt hại cụ thể, xác định đƣợc (định lƣợng bằng tiền). Điều này không chỉ đơn thuần dựa vào thời điểm có quyết định cho vay của tổ chức tín dụng hoặc

40

khi phát sinh nợ đến hạn không đƣợc hoàn trả đầy đủ của ngƣời vay mà đƣợc đánh giá xuyên suốt quá trình giao dịch, kể cả cấn trừ các khoản có bảo đảm bằng tài sản để xác định số tiền chiếm đoạt cụ thể.

Thứ hai, tội phạm tham nhũng kinh tế thƣờng gắn với các hoạt động chuyển giao tài sản theo các quyết định hành chình của cơ quan thẩm quyền có hiệu lực, nhất là đối với những tài sản bắt buộc phải xác lập quyền sở hữu bằng hính thức đăng ký theo quy định. Việc xác định thời điểm chiếm đoạt hoặc gây thất thoát những tài sản này vốn dĩ là yếu tố tiên quyết trong cấu thành tội phạm vẫn còn những quan điểm khác biệt. Chẳng hạn, nếu đối tƣợng tài sản là bất động sản, trong một số trƣờng hợp, việc xác lập giao dịch phải tuân thủ đầy đủ các quy định về tiến hành việc bàn giao, công nhận quyền sở hữu tài sản theo các quyết định của cơ quan thẩm quyền khi đó mới có đủ căn cứ xác định tội phạm, truy cứu trách nhiệm hính sự, bồi thƣờng thiệt hại về dân sự.

Ví dụ: Theo Thông báo số 843/TB-CSKT ban hành ngày 1/11/2021 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh BRVT về kết quả giải quyết nguồn tin tội phạm đối với những sai phạm trong tổ chức bán đấu giá quyền sử dụng khu đất có diện tìch 79.481,9 m2 tại huyện CĐ (Thành phố VT): Các đối tƣợng tham gia đấu giá tuy thông thầu nhƣng hành vi không cấu thành tội phạm từ đó, cơ quan điều tra quyết định không khởi tố hính sự. Kết luận viện dẫn trên thí hành vi của những ngƣời tham gia đấu giá quyền sử dụng đất có gian dối nhƣng ―kết quả trúng đất giá chưa được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nên chưa đủ cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự‖. Đồng nghĩa rằng, sai phạm trong hoạt động bán đấu giá tài sản chƣa đến mức truy cứu trách nhiệm hính sự. Song để làm sáng tỏ hành vi, mức độ gian dối đến đâu, các cơ quan tố tụng hính sự phải thu thập đầy đủ các tính tiết chứng cứ, đánh giá và xử lý hành vi này khách quan, toàn diện mới có thể xác định có sai phạm hay không, kể cả những sai phạm khác ngoài hoạt động bán đấu giá tài sản để xử lý41. Trƣờng hợp có căn cứ xử lý thí phải quyết định rõ ràng, không đƣợc lạm

41 Ví dụ: Vụ án Nguyễn Văn Sỹ và đồng bọn can tội: ―Lừa đảo chiếm đoạt tài sản‖ ―Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức‖. Trong quá trình xử lý đơn tố giác tội phạm về hành vi lừa đảo, Cơ quan điều tra phát hiện bị cáo làm giả con dấu tài liệu của các cơ quan Nhà nƣớc nên đã tiến hành xác minh và truy tố thêm tội phạm này theo Cáo trạng số 512/CT-VKS-P3 vào ngày 27/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh

41

dụng hoặc bỏ ngỏ gây hoài nghi ảnh hƣởng đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức, cá nhân.

Ở tính huống này, hành vi gian dối gây xâm hại đến hoạt động bán đấu giá tài sản bính thƣờng nguy cơ gây ảnh hƣởng quyền lợi của các nhà đầu tƣ khác, cũng nhƣ gây thiệt hại ngân sách Nhà nƣớc do nguồn thu không đúng với giá trị của tài sản bán đấu giá thực tế, cạnh tranh trên thị trƣờng. Tuy nhiên, việc trúng đấu giá và bàn giao tài sản trúng đấu giá là căn cứ pháp lý cấu thành tội phạm này. Nếu chƣa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hính sự theo kết luận của Cơ quan điều tra thí bắt buộc phải áp dụng các quy định xử phạt hành chình để xử lý. Dù vậy, qua nghiên cứu cho thấy, các quy định xử phạt hành chình trong hoạt động bán đấu giá tài sản theo tác giả vẫn còn nhiều hạn chế. Cụ thể, Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chình phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chình trong lĩnh vực bổ trợ tƣ pháp; hành chình tƣ pháp; hôn nhân và gia đính; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, có hiệu lực từ ngày 01/9/2020 (Nghị định số 82/2020/NĐ-CP) chỉ quy định xử phạt đối với ngƣời tham gia đấu giá thông thầu dím giá mà chƣa đến mức truy cứu trách nhiệm hính sự có mức phạt từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả42 là hủy kết quả đấu giá tài sản nếu tài sản đấu giá là tài sản công. Các quy định này không đề cập cho phép áp dụng các biện pháp thu giữ khoản tiền đặt cọc tham gia đấu giá hoặc những thiệt hại phát sinh từ hoạt động này.

Từ tính huống trên cho thấy các cơ quan tố tụng hính sự đã xử lý đúng quy định, làm sáng tỏ các căn cứ cấu thành tội phạm từ đó quyết định không khởi tố vụ án với những lý do khá thuyết phục. Vụ việc cũng để lại bài học kinh nghiệm cho các tổ chức, cá nhân phải thật sự nghiêm túc khi tham gia đấu giá tài sản, nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng nhƣ áp dụng các biện pháp xử phạt hành chình phù hợp và đầy đủ khi sai phạm chƣa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hính sự sao cho có tác dụng răn đe, chế tài sai phạm phù hợp. Qua vụ việc cũng cho thấy sự can thiệp kịp thời của các cơ quan pháp luật trong việc phát hiện ngăn chặn tội phạm có thể xảy ra, nguy cơ gây thất thoát tài sản của Nhà nƣớc với quy mô lớn.

42 Xem thêm: Khoản 2, 5 Điều 23 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP

42

Garis besar

Dokumen terkait