• Tidak ada hasil yang ditemukan

Mô hình tố tụng tranh tụng (true process) 1

158

Theo đa số các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc thí thí chỉ có hai mô hính tố tụng hính sự cơ bản. Mỗi mô hính tố tụng đều có nhiệm vụ phát hiện xử lý tội phạm, bảo vệ công lý, quyền con ngƣời. Tuy nhiên, mỗi mô hính tố tụng cũng có những nét đặc trƣng riêng2. 2.1. Đặc điểm của mô hình tranh tụng

2.1.1. Bản chất và mục đích của tranh tụng trong mô hình tố tụng tranh tụng

Về mặt bản chất, mô hính tố tụng tranh tụng là mô hính coi trọng thủ tục tố tụng công bằng – Thủ tục công bằng cho tất cả những ngƣời tham gia tố tụng không phân biệt vai trò, chức năng tố tụng của họ. Tố tụng tranh tụng bảo đảm cho các bên buộc tội, gỡ tội những địa vị pháp lý bính đẳng trong chứng minh tội phạm, trong thực hiện các thủ tục tố tụng. Sự thật của vụ án, chân lý khách quan đƣợc xác định tại phiên toà bới các chủ thể buộc tội, gỡ tội bính đẳng; Toà án sẽ công nhận và phán quyết theo sự thật đƣợc chứng minh bởi các bên.

Mục đìch của tố tụng tranh tụng là tím kiếm sự thật từ các bên để giúp cho Toà án có phán quyết đáng đắn vụ án, nhƣng đồng thời bảo vệ tối đa quyền con ngƣời, nhất là quyền của ngƣời bị buộc tội. Bởi ví vậy, các thủ tục tố tụng ở các nƣớc thuộc mô hính tố tụng tranh tụng rất coi trọng Luật tố tụng hính sự; coi trọng luật về chứng cứ.

Do tranh tụng là bản chất của tố tụng tranh tụng nên trong tố tụng hính sự tranh tụng không tồn tại nguyên tắc tranh tụng. Đối tụng giữa các bên buộc tội, bào chữa đƣợc coi là lõi cơ bản trong tố tụng tranh tụng. Toàn bộ quyền và nghĩa vụ của các bên, các thủ tục tố tụng về vụ án cũng nhƣ chứng minh tội phạm đều phục vụ cho việc đối tụng của các bên.

Mô hình tố tụng tranh tụng cũng đặt mục tiêu tím đến sự thật khách quan của vụ án.

Tuy nhiên, cách thức mà mô hình tố tụng hình sự này lựa chọn để tím đến sự thật khách quan của vụ án là tạo ra và bảo đảm quy trình thủ tục thực sự công bằng để các bên (buộc tội và gỡ tội) đi tím sự thật theo cách của mình trong suốt quá trình giải quyết vụ án. ―Công bằng‖ vừa đƣợc coi là cách thức, vừa đƣợc coi là yêu cầu mà mô hình tố tụng hình sự tranh tụng sử dụng để đạt đƣợc mục đìch tím ra sự thật khách quan. Chính vì vậy, mô hình tố tụng tranh tụng thƣờng đƣợc coi là dựa trên thuyết ―đối kháng‖, tức là việc đối tụng giữa các bên buộc tội và gỡ tội (bào chữa).

1 Bùi Tiến Đạt(2021), Nguyên tắc trình tự pháp luật công bằng, hợp lý và vai trò bảo vệ quyền con người, NXB Chính trị quốc gia sự thật, tr. 223-255.

2 Philip L. Reichel, Comparative Criminal Justice Sistems, Sixth Edition, University of Northern Colorado, 2013.

159

Trong tố tụng tranh tụng không có sự phân chia các bên tố tụng thành cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng với chức năng, nhiệm vụ tố tụng nhiều khi cồng lấn lên nhau, thể hiện sự bất công bằng trong các địa vị tố tụng, cả hoạt động tố tụng. Tố tụng tranh tụng đòi hỏi sự phân định rõ ràng các chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử, trong đó chức năng buộc tội thuộc về bên công tố, chức năng gỡ tội thuộc bên Luật sƣ biện hộ và chức năng xét xử thuộc về Toà án. Hơn ở đâu hết, các chức năng tố tụng (buộc tội, bào chữa, xét xử) đƣợc quy định một cách rõ ràng, minh bạch. Mô hình tố tụng tranh tụng đòi hỏi tiến trình tố tụng phải đƣợc tiến hành dƣới hình thức tranh luận công khai giữa các bên về vụ án, ở những mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng cụ thể.

2.1.2. Về các chủ thể tố tụng và địa vị của các chủ thể:

Mô hính tranh tụng không phân chia các chủ thể tố tụng thành cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng. Việc xác định địa vị pháp lý hoàn toàn phụ thuộc vào chức năng tố tụng của các chủ thể tố tụng: buộc tội, gỡ tội và xét xử. Các chủ thể tranh tụng cơ bản là Công tố viên và ngƣời bào chữa cho ngƣời bị buộc tội; Toà án có vai trò là ngƣời điều khiển việc đối tụng giữa các bên buộc tội, bào chữa và sử dụng kết quả đối tụng đó để ra phán quyết về vụ án.

Theo mô hình tố tụng tranh tụng thí cơ quan công tố không phải là cơ quan tiến hành tố tụng mà đƣợc coi là một bên tham gia tranh tụng. Công tố viên cũng nhƣ Luật sƣ bào chữa là những ngƣời có trong tay toàn bộ những chứng cứ của vụ án mà họ tự thu thập đƣợc.

Trong quá trình xét xử, Công tố viên và Luật sƣ bào chữa đóng vai trò chình trong việc thẩm vấn, đối đáp lẫn nhau. Các quan toà hầu nhƣ không có thông tin gì về vụ án trƣớc khi xét xử, mà chỉ thông qua quá trình tranh tụng giữa Công tố viên và Luật sƣ bào chữa họ mới có thông tin về nội dung vụ án.

Trách nhiệm buộc tội thuộc về Công tố viên. Công tố viên đƣợc Cảnh sát giúp sức trong thu thập chứng cứ để thực hiện việc buộc tội bị cáo tại phiên toà. Trong giai đoạn tiền xét xử (điều tra của các bên), Cơ quan điều tra và Cơ quan công tố hầu nhƣ độc lập với nhau.

Cơ quan điều tra không chịu sự chỉ đạo của Công tố; ngƣợc lại, Công tố cũng chỉ đóng vai

160

trò tƣ vấn cho Điều tra viên trong thu thập chứng cứ, chứng minh để phục vụ cho việc buộc tội chình thức tại phiên xét xử của Toà án.

Toà án có vai trò quyết định trong phán quyết về vụ án; nhƣng có vai trò khá thụ động trong chứng minh. Trong giai đoạn tiền xét xử, vai trò của Toà án rất hạn chế. Toà án chỉ tham gia tố tụng trong hai trƣờng hợp: Toà án chỉ tham gia khi có đề nghị của phìa cơ quan điều tra, cơ quan công tố về việc bắt, tạm giam nghi can hoặc trong trƣờng hợp có những nhân chứng quan trọng không chịu hợp tác thì các bên có thể yêu cầu Tòa án triệu tập nhân chứng đó tới để lấy lời khai trƣớc một Đại bồi thẩm đoàn.

Điểm đặc trƣng nổi bật của giai đoạn tiền xét xử là cả bên bào chữa và bên công tố đều có quyền điều tra nhƣ nhau. Cả hai bên đều tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ, phỏng vấn nhân chứng và tự lập hồ sơ hính sự riêng để phục vụ cho mục đìch của mình.

Ngoại trừ các quy định liên quan tới việc bảo vệ quyền công dân, pháp luật về quy trính điều tra trong mô hình tố tụng tranh tụng khá lỏng lẻo. Các bên đều có thể tiến hành thu thập chứng cứ theo cách thức riêng của mình.

Trong quá trính điều tra và trong suốt quá trình tố tụng, Luật sƣ bào chữa và Công tố viên đại diện cho những lợi ích khác nhau và có mục tiêu khác nhau. Bên bào chữa bảo vệ lợi ích của ngƣời bị buộc tội và chỉ chuyên tìm những chứng cứ nhằm gỡ tội cho bị can; bên công tố có nhiệm vụ buộc tội nên chỉ chú trọng tới các chứng cứ buộc tội. Bên công tố không có nghĩa vụ phải xem xét các chứng cứ gỡ tội; cũng nhƣ bên Luật sƣ có quyền bỏ qua các chứng cứ buộc tội thân chủ của mình. Trong mô hình tố tụng tranh tụng, Công tố và Luật sƣ bào chữa có nghĩa vụ thƣờng xuyên phải trao đổi thông tin về chứng cứ của mình cho phía bên kia. Đặc biệt, do có lợi thế nghề nghiệp hơn trong việc thu thập chứng cứ, pháp luật quy định Công tố viên có nghĩa vụ phải trao đổi thông tin về hồ sơ hính sự của mình cho Luật sƣ bào chữa.

2.1.3. Về các giai đoạn tố tụng:

Trong tố tụng tranh tụng đƣợc phân thành hai giai đoạn: giai đoạn tiền xét xử và giai đoạn xét xử. Tuy nhiên, việc giải quyết vụ án đƣợc tập trung vào giai đoạn xét xử vụ án. Giai đoạn xét xử đƣợc tiến hành bằng nhiều phiên toà khác nhau:

161

- Phiên toà thông báo quyết định truy tố. Tại phiên toà này, công tố thông báo cho bên buộc tội về các chứng cứ ban đầu và quyết định truy tố của Công tố với nghi can; còn nghi can, thông thƣờng thông qua ngƣời bào chữa, phản hồi sơ bộ về quyết định truy tố. Sau phiên toà này, các bên chính thức thực hiện việc thu thập chứng cứ chứng minh cho quan điểm của mình. Việc thu thập chứng cứ phía công tố do cơ quan điều tra thực hiện; việc thu thập chứng cứ phía nghi can do luật tƣ và thám tử tƣ thực hiện. Phiên toà này thông thƣờng do thƣ ký Toà án chứng kiếm;

- Phiên toà các bên chính thức thông báo về quyết định của mình thông qua các chứng cứ thu thập đƣợc trƣớc Toà án do Thẩm phán điều khiển. Công tố thông báo chính thức quyết định truy tố và đƣa ra các chứng cứ buộc tội. Ngƣời vào chữa, bị cáo đƣa ra các chứng cứ gỡ tội. Tại phiên toà này chƣa có sự xét hỏi, kiểm tra chéo chứng cứ và chƣa có sự tranh luận.

- Phiên toà thảo thuận nhận tội (Plea bargaining). Trên cơ sở các chứng cứ buộc tội đƣợc Công tố cung cấp và chứng cứ gỡ tội do mình thu thập đƣợc, nghi can có quyền nhân tội hoặc không nhận tội.

Nếu bị cáo nhận tội coi nhƣ việc thoả thuận nhận tội kết thúc và Toà án sẽ mở phiên toà tiếp theo để các bên phân tích, nhận định về các tình tiết vụ án phục vụ cho quyết định hình phạt. Tại phiên toà này Toà án phán quyết về tội phạm (mà bị cáo đã nhận) và hình phạt đƣợc áp dụng theo các tình tiết dùng làm căn cứ quyết định hình phạt và đƣợc giảm nhẹ do bị cáo đã nhân tội.

- Nếu bị cáo không nhận tội thì Toà án sẽ tổ chức một phiên toà tranh tụng đầy đủ với các bên tranh tụng trƣớc Bồi thẩm đoàn và Thẩm phán. Những ngƣời làm chứng buộc tội hay gỡ tội do các bên buộc tội hay bào chữa triệu tập; Thẩm phán nhƣ một ngƣời trọng tài điều khiển để các bên thực hiện việc xét hỏi và tranh luận mà không tham gia vào các tiến trình này. Các thành viên Bồi thẩm đoàn hoàn toàn im lặng và nghe các bên xét hỏi, tranh luận. Sau khi kết thức xét hỏi, tranh luận Bồi thẩm đoàn (không có mặt Thẩm phán) tiến hành nghị án về hai vấn đề: bị cáo có tôi hay không có tội; và nếu là bị cáo có tội và tội phạm đó có thể bị kết án tử hình theo quy định của pháp luật hình sự thì có cho phép Thẩm phán tuyên án tử hình hay không. Phán quyết của Bồi thẩm đoàn mang là tuyệt đối phải do 100%

162

thành viên đồng ý thông qua. Quyết định của Bồi thẩm đoàn đƣợc thông báo cho Thẩm phán: nếu Bồi thẩm đoàn quyết định bị cáo không có tội thì vụ án kết thúc; nếu Bồi thẩm đoàn tuyên bố bị cáo có tội, thì Thẩm phán tuyên bố sẽ mở phiên toà phán quyết về tội phạm và hình phạt đối với bị cáo.

2.1.4. Về vấn đề chứng cứ và chứng minh tội phạm:

Mô hình tố tụng tranh tụng có các quy định rất phức tạp và chặt chẽ về các chứng cứ có thể đƣợc đƣa ra sử dụng tại phiên tòa. Trong các nƣớc theo mô hình tranh tụng, Luật về thủ tục tố tụng và luật về chứng cứ đƣợc quy định riêng. Trong Luật về chứng cứ, có các quy định nhƣ không đƣợc sử dụng các chứng cứ gián tiếp, chứng cứ thuật ại (chứng cứ nghe nói lại), chứng cứ nhằm tác động vào tình cảm của Bồi thẩm đoàn...

Tố tụng tranh tụng đƣợc thực hiện trực tiếp bằng lời nói một cách công khai tại phiên toà. Các bên sử dụng các câu hỏi, các chứng cứ mà mính có đƣợc thực hiện việc kiểm tra chéo để để khẳng định hoặc bác bỏ các chứng cứ của bên đối tụng. Do hoàn toàn đƣợc thực hiện bằng lời nói nên mọi chứng cứ viết, chẳng hạn nhƣ biên bản của cảnh sát tƣ pháp cũng không đƣợc công nhận là chứng cứ. Vì vậy, mọi ngƣời tham gia tố tụng, đặc biệt là ngƣời làm chứng phải đƣợc các bên buộc tội và bào chữa triệu tập đến phiên toà; các chứng cứ vật chất (vật chứng, tài liệu, kết quả giám định...) phải đƣợc đƣa ra xem xét tại phiên toà. Ngƣời đƣa ra chứng cứ phải chứng minh tính hợp pháp của các chứng cứ đó.

Sở dĩ mô hính tố tụng tranh tụng có quy định chặt chẽ về chứng cứ nhƣ vậy bởi vì ngƣời có thẩm quyền quyết định hành vi của bị cáo là tội phạm hay không phải tội phạm thuộc về Bồi thẩm đoàn - là những ngƣời không có kiến thức pháp luật và cũng không có nghiệp vụ xét xử; trong khi đó Luật sƣ bào chữa và Công tố viên là những ngƣời chuyên nghiệp, luôn tím cách tác động vào Bồi thẩm đoàn theo hƣớng có lợi cho mính. Các quy định chặt chẽ về chứng cứ sẽ giúp cung cấp cho thành viên Đoàn bồi thẩm và Thẩm phán những chứng cứ ―sạch‖ để có thể căn cứ vào đó đƣa ra phán quyết định tội, áp dụng hình phạt một cách chính xác.

Có thể tóm gọn lại, mô hính tranh tụng đƣợc coi là mô hính tố tụng công bằng (true process) có các đặc trƣng sau:

163

- Thứ nhất, Theo đuổi mục đìch công bằng, bảo vệ tuyệt đối quyền con ngƣời trong tố tụng hính sự;

- Thứ hai, Có sự phân chia chức năng tố tụng và từ đó chủ thể tố tụng có quyền rõ ràng, bính đẳng tƣơng ứng với chức năng: buộc tội, bào chữa và xét xử;

- Thứ ba, Hoạt động tố tụng chình thức đƣợc thực hiện tại Toà án. Tranh tụng chỉ đƣợc thực hiện trong xét xử; trong giai đoạn tiền xét xử, các bên chỉ thực hiện việc chuẩn bị, tạo tiền đề cho tranh tụng tại phiên toà. Việc xét xử tại Toà án đƣợc thực hiện thông các phiên toà khác nhau với sự có mặt các bên buộc tội, bào chữa, xét xử: phiên toà thông báo việc buộc tội, phiên toà các bên trính chứng cứ, phiên toà thoả thuận nhận tội, phiên toà tranh tụng đầy đủ (nếu ngƣời bị buộc tội không nhận tội) và phiên toà tuyên án. ;

- Thứ tư, Sự thật đƣợc xác định thông qua đối tụng tại phiên toà. Toà án không có hồ sơ vụ án. Các bên tham gia tố tụng đƣợc Luật tạo điều kiện cân bằng, bính đẳng để chứng minh theo chức năng tố tụng của mính;

- Thứ năm, Toà án giữ vai trò khá thụ động trong xác định sự thật của vụ án...

2.2. Những điểm tích cực và hạn chế của tranh tụng trong mộ hình tố tụng tranh tụng.

Xuất phát từ những đặc điểm nêu trên, nhìn từ góc độ khách quan, trung lập nhất, có thể thầy tố tụng hình sự tranh tụng có những điểm tích cực và hạn chế cơ bản sau:

2.2.1. Những điểm tích cực:

- Tố tụng tranh tụng có một quy trình tố tụng công bằng, đặc biệt là trong giai đoạn xét xử; thể hiện vai trò bính đẳng giữa bên buộc tội (Công tố viên) và bên bào chữa (Luật sƣ bào chữa). Cả hai chủ thể này bính đẳng tuyệt đối; đều có quyền và nghĩa vụ nhƣ nhau trong suốt quá trình tố tụng. Ở giai đoạn tiền xét xử, họ có quyền nhƣ nhau trong việc điều tra, thu thập chứng cứ. Ở giai đoạn xét xử, họ đều có quyền triệu tập nhân chứng của mình; có quyền đƣa ra chứng cứ để xem xét trƣớc Tòa. Từ góc độ tố tụng, họ đều có quyền tác động nhƣ nhau tới phiên xét xử, có quyền lựa chọn chứng cứ để chứng minh...

Sự công bằng còn đem lại những tác động tích cực tới chất lƣợng của quá trình giải quyết vụ án. Do các nghi can đều có Luật sƣ và Luật sƣ có thể tham gia đầy đủ vào quá trình tố tụng nên tại phiên toà vụ án đƣợc xem xét từ các góc độ khác nhau; Tòa án có thêm đƣợc một nguồn thông tin để xác định sự thật khách quan của vụ án. Thay vì chỉ xem xét các

Garis besar

Dokumen terkait