172
Do phiên toà là sự tiếp tục tìm kiếm sự thật mà đã đƣợc chứng minh trong giai đoạn điều tra, truy tố, cho nên trong nhiều trƣờng hợp phiên toà xét xử thoả mãn việc công bố các lời khai trong giai đoạn điều tra mà vắng mặt những ngƣời tham gia tố tụng, nhất là nhân chứng. Trong khi đó việc điều tra lại là bí mật, cho nên biên bản tố tụng ghi nhận các lời khai do điều tra viên lập không phải lúc nào cũng chình xác, khách quan…
Việc xét xử của các Toà án thuộc mô hình tố tụng thẩm vấn chủ yếu đơn thuần chỉ là thẩm định những gí đã thu thập đƣợc trong giai đoạn tiền xét xử. Đồng thời theo đuổi mục tiêu tìm kiếm sự thật tuyệt đối, kiểm soát tội phạm, cho nên cho phép Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, huỷ án để điều tra lại... kéo dài tiến trình tố tụng, vi phạm nguyên tắc xét xử kịp thời4.
- Không có sự phân định rành mạch giữa các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, một chủ thể có thể đảm đƣơng nhiều chức năng tố tụng.
- Do cách thức tiến hành tố tụng của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn dẫn đến nguy cơ làm oan ngƣời vô tội cao hơn so với mô hình tố tụng tranh tụng.
4. Vận dụng tranh tụng của mô hình tranh tụng vào mô hình tố tụng thẩm vấn ở Việt
173
- Tƣ tƣởng xây dựng, hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền với sự phân công, phối hợp và đặc biệt là kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện 3 quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp.
Trong tố tụng hính sự, cơ quan điều tra, Công tố chủ yếu thuộc về hành pháp; Toà án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tƣ pháp;
- Tƣ tƣởng tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời, nhất là quyền con ngƣời của ngƣời bị buộc tội nhƣ quyền bào chữa, quyền đƣợc suy đoán vô tội, quyền đƣợc tôn trọng tình mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, quyền đƣợc xét xử nhanh chóng bằng một Toà án không thiên vị;
- Tƣ tƣởng xây dựng một nền tƣ pháp dân chủ, công bằng. Mọi trính tự, thủ tục tố tụng hính sự đều hƣớng tới mục tiêu bảo vệ công lý, ví con ngƣời; làm sáng tỏ và xử lý nghiêm minh ngƣời phạm tội, chống oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm;
- Việc tiếp thu các yếu tố của tố tụng tranh tụng vào tố tụng thẩm vấn phải đảm bảo khả thi, phù hợp với các điều kiện về tƣ tƣởng, kinh tế - xã hội, văn hoá, truyền thống pháp luật của mỗi quốc gia...
4.2. Những yếu tố tố tụng tranh tụng có thể được tiếp thu trong tố tụng thẩm vấn ở Việt Nam
Qua phân tìch các điểm tìch cực và hạn chế của từng mô hính tố tụng, các quốc gia thuộc mô hính thẩm vấn, tuỳ theo trính độ, đặc điểm tố tụng của quốc gia…, có thể tiếp thu các yếu tố sau đây vào hệ thống tố tụng tƣ pháp hính sự của mính. Đó là:
- Thứ nhất, cần khẳng định rằng tranh tụng trong tố tụng hình sự thực chất là quá trình tồn tại, vận động, đấu tranh giữa hai chức năng cơ bản của tố tụng hình sự: chức năng buộc tội và chức năng bào chữa – hai chức năng có định hƣớng đối trọng nhau. Chủ thể thực hiện các chức năng tố tụng này cần đƣợc tạo điều kiện bính đẳng với nhau trong trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, mà chủ yếu tại phiên toà sơ thẩm. Tăng cƣờng tranh tụng trong xét xử có ý nghĩa quan trọng với việc đẩy mạnh dân chủ, công bằng trong quá trình giải quyết vụ án.
- Thứ hai, quá trính tố tụng là sự vận hành đầy đủ của 3 chức năng: buộc tội, bào chữa và xét xử. Mỗi chức năng tố tụng đƣợc một hoặc một số chủ thể thực hiện, bao gồm chủ thể
174
buộc tội, chủ thể bào chữa và chủ thể xét xử. Cả 3 loại chủ thể này đƣợc pháp luật bảo đảm công bằng, bính đẳng trong việc thực hiện chức năng của mính.
Từ đó, 1/ Cần khẳng định rằng nguyên tắc tranh tụng chỉ hiển diện trong xét xử, các giai đoạn tố tụng trƣớc đó các bên chỉ tạo tiền đề cho việc thực hiện tranh tụng trong xét xử;
2/các chủ thể cơ bản trong tố tụng hính sự không nên chia thành cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng; ngƣời tham gia tố tụng… làm cho chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể thiếu minh bạch, rõ ràng, dễ chồng lấn lên nhau; thể hiện sự thiếu bính đẳng giữa các chủ thể tố tụng hính sự.
Phải chăng, tiếp thu tinh thần của tố tụng tranh tụng, nên phân chia các chủ thể tố tụng hính sự thành các nhóm: chủ thể buộc tội (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát), chủ thể bào chữa (ngƣời bào chữa, ngƣời bị buộc tội), chủ thể xét xử (Toà án) và các chủ thể khác tham gia tố tụng nhƣ bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời làm chứng… Đồng thời, quy định địa vị tố tụng hính sự bính đẳng giữa các nhóm chủ thể, nhất là chủ thể buộc tội và chủ thể bào chữa và chức năng phụng sự công lý của Toà án.
- Thứ ba, thiết lập cơ chế bảo đảm sự bính đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong việc thực thi các chức năng buộc tội và bào chữa. Đề cao vai trò của ngƣời bào chữa trong các giai đoạn tố tụng. Pháp luật tố tụng hình sự không đơn giản là khẳng định nguyên tắc các bên tham gia tố tụng; mà quan trọng hơn là có những bảo đảm pháp lý cho sự bình đẳng đó. Vì dụ, cần quy định quyền và thủ tục đầy đủ của bên bào chữa trong thu thập chứng cứ, triệu tập ngƣời làm chứng; bảo đảm sự có mặt của ngƣời tham gia tố tụng tại phiên toà để trực tiếp kiểm tra bằng lời các chứng cứ thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố...
Quy định đầy đủ các quyền và xây dựng cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Tạo các điều kiện về pháp lý và thực tiễn để bị can, bị cáo và ngƣời bào chữa của họ thực hiện quyền chứng minh sự vô tội hoặc giảm tội, giảm nhẹ hình phạt.
- Thứ tư, Cải tiến các thủ tục tố tụng tại phiên toà để bảo đảm tranh tụng dân chủ, bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Xác định rõ, chứng minh tội phạm là nghĩa vụ của bên buộc tội. Bên bào chữa đƣợc tạo cơ hội bính đẳng nhƣ Công tố trong việc thực hiện chức năng bào chữa, chứng minh bị can, bị cáo không phạm tội hoặc giảm tội, giảm mức hình
175
phạt. Các yêu cầu của bên buộc tội và bên bào chữa phải đƣợc Toà án quan tâm, đáp ứng nhƣ nhau. Toà án phải thực sự là hiện thân của công lý, của sự khách quan, vô tƣ trong quá trình xét xử vụ án. Toà án chỉ thực hiện chức năng xét xử, không thực hiện việc buộc tội bị cáo. Tuy nhiên, nhiệm vụ xác định sự thật khách quan của Toà án vẫn cần đƣợc tôn trọng.
Tại phiên toà, ngoài việc điều khiển việc xét hỏi là chủ yếu để Công tố xét hỏi, tranh luận buộc tội, ngƣời bào chữa xét hỏi, tranh luận để gở tội, thí Toà án cũng có thể tham gia xét hỏi làm rõ sự thật, nghe các bên tranh luận để chứng minh cho phán quyết của mính. Hay nói cách khác, dù có tiếp thu thủ tục tranh tụng, mục đìch kiểm soát tội phạm vẫn cần đƣợc khẳng định trong tố tụng thẩm vấn.
- Thứ năm, Tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời trong quá trình giải quyết vụ án hình sự là mục tiêu quan trọng của các mô hình tố tụng; tuy nhiên, là mô hình tố tụng công bằng, yếu tố này đƣợc coi trọng hơn trong mô hính tranh tụng.
Vì vậy, tăng cƣờng các bảo đảm đối với quyền con ngƣời trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải đƣợc các quốc gia mô hình xét hỏi xem xét nhƣ là vấn đề trọng tâm của quá trình hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự. Cụ thể là:
+ Bổ sung, cân bằng quyền và nghĩa vụ của các bên buộc tội, gỡ tội; tăng cƣờng quyền của ngƣời bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự;
+ Bổ sung các quyền của ngƣời bào chữa để bảo đảm ngƣời bào chữa thực hiện đầy đủ, hiệu quả chức năng bào chữa, bảo đảm sự bính đẳng với bên buộc tội trong suốt quá trình thực thi chức năng tố tụng của mình;
+ Đồng thời với việc bổ sung, hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị buộc tội, cần bổ sung các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ, các biện pháp chế tài áp dụng đối với các cơ quan nhà nƣớc có chức năng buộc tội trong trƣờng hợp vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể ngƣời tham gia tố tụng khác.
- Thứ sáu, tăng cƣờng tính công khai, minh bạch của các thủ tục tố tụng. thực hiện tốt Nguyên tắc "Tranh tụng trong xét xử đƣợc bảo đảm"5. Mặc dù tố tụng xét hỏi đƣợc phân chia thành nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau, mỗi giai đoạn có nhiệm vụ khác nhau, các chủ thể tham gia khác nhau; nhƣng phải coi việc xét xử tại phiên toà là giai đoạn trọng tâm thể
5 Điều 103 Hiến pháp 2013.
176
hiện bản chất nhất mô hình tố tụng; phƣơng cách tím kiếm sự thật khách quan và bảo đảm công lý. Tại phiên toà, tính công khai, minh bạch, khách quan, đầy đủ và tranh tụng tuyệt đối phải đƣợc thiết lập. Tại phiên toà, các chứng cứ, tài liệu thu thập đƣợc trong quá trình tiến hành tố tụng trƣớc đó phải đƣợc thẩm tra đầy đủ, khách quan; ngƣời làm chứng, những ngƣời tham gia tố tụng khác phải có mặt tại phiên toà để đƣa ra lời khai...
5. Kết luận
Tố tụng hình sự Việt Nam thuộc mô hình tố tụng xét hỏi nhằm mục đìch chình là kiểm soát tội phạm. Tuy nhiên, trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, nên chăng cần bổ sụng các yếu tố tích cực của thủ tục tố tụng công bằng; bảo đảm tố tụng hình sự đồng thời đạt đƣợc cân bằng hai mục tiêu kiểm soát hiệu quả tội phạm và bảo đảm quyền con ngƣời, bảo đảm công bằng trong các thủ tục tố tụng hình sự.
Từ góc độ đó, theo chúng tội, các yếu tố tích cực của thủ tục tố tụng công bằng (nhƣ bảo đảm bính đẳng giữa các bên buộc tội, bào chữa; phân chia các chủ thể tố tụng cơ bản thành chủ thể buộc tội, chủ thể bào chữa, chủ thể xét xử; bổ sung quyền của bên bào chữa trong thu thập và thủ tục hợp lý để thu thập chứng cứ; mọi hoạt động tranh tụng đề có sự hiện diện không chỉ chủ thể buộc tội, chủ thể gỡ tội mà còn cả Toà án; tăng cƣờng tính công khai, minh bạch của các thủ tục tố tụng...) cần đƣợc tiếp thu trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Sự tiếp thu, kết hợp hợp lý, hiệu quả yếu tố tranh tụng tích cực của tố tụng tranh tụng vào tố tụng xét hỏi truyền thống sẽ là đảm bảo quan trọng cho hoạt động tố tụng vừa đạt đƣợc mục tiêu kiểm soát tội phạm và mục tiêu công bằng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Tiến Đạt (2021), Nguyên tắc trình tự pháp luật công bằng, hợp lý và vai trò bảo vệ quyền con người, NXB Chình trị quốc gia sự thật.
2. Nguyễn Thu Hiền (2012), “Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội.
177
3. Nguyễn Văn Hiển (2011), Về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự, NXB Chình trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Ngọc Kiện (2016) “Thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên toà sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam", Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học luật Thành phố Hồ Chì Minh.
5. Hoàng Nghĩa Mai (Chủ nhiệm) (2012), ―Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp‖, Đề tài khoa học cấp Nhà nƣớc.
6. Nguyễn Thị Mai (2021), Hoạt động tranh tụng tại phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học luật Hà Nội.
7. Đinh Thị Mai (2016) (Chủ nhiệm), Các chức năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện hành lâm khoa học xã hội.
8. Philip L. Reichel (2013), Comparative Criminal Justice Sistems, Sixth Edition, University of Northern Colorado.
9. Peter VonDoepp (2013), The Rule of law and the Court, Publisher: Routledge.
10. Nguyễn Thị Thuỷ (2014), “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam với tinh thần tố tụng tranh tung", Luận án Tiến sĩ Luật học, Khoa luật đại học quốc gia Hà Nội.
11. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Đề án “Mô hình tố tụng hình sự”
178
15. VỀ XU HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ: QUAN