• Tidak ada hasil yang ditemukan

Mối quan hệ trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm

42

43

số 15 đƣờng T, phƣờng B, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh với mục đìch phục vụ công tác nghiệp vụ của ngành Công an, nhƣng Phan Văn Anh V và Công ty B đã không sử dụng những tài sản này vào mục đìch hoạt động nghiệp vụ của ngành Công an mà hợp tác triển khai thực hiện dự án xây dựng trên khu nhà đất số 15 T nhằm mục đìch thu lợi cá nhân…. Nguyễn Hữu T, Đào Anh K, Lê Văn Th, Trƣơng Văn U, Nguyễn Thanh Ch dự thảo và ban hành các văn bản để Công ty B thuê chỉ định nhà số 15 T (không thông qua đấu giá) và đƣợc khấu trừ tiền bồi thƣờng giải phóng mặt bằng đã nộp vào tiền thuê đất trái pháp luật gây thiệt hại cho ngân sách nhà nƣớc 6.777.262.500 đồng.

Theo vụ án này, các bị cáo quyết định cho phép sử dụng tài sản công không đúng trình tự thủ tục, đƣợc giao (bên thuê) sử dụng nhà đất công sản không đúng mục đìch ban đầu đối với tài sản thuê nhƣng không đƣợc phát hiện, ngăn chặn gây thất thoát (thiệt hại cho Nhà nƣớc) nên bị xử lý hình sự là có cơ sở pháp lý. Từ tình huống này, thiệt hại tài sản không phải là căn cứ pháp lý duy nhất để đánh giá tình chất mức độ nguy hiểm của tội phạm, mà còn dựa vào nhiều yếu tố khác nhƣ thủ đoạn, vai trò của từng bị cáo, phạm vi trách nhiệm, quyền hạn đƣợc Nhà nƣớc giao cho… Việc áp dụng các biện pháp xử lý theo pháp luật hình sự đƣợc thực hiện tƣơng ứng, kể cả áp dụng hình phạt tù là thuyết phục.

(2) Dựa trên giá trị tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát

Thứ nhất, định lƣợng giá trị tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát vẫn là xu hƣớng lập pháp khi định tội và đánh giá mức độ phạm tội. Xác định giá trị của tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát đối với một khoản tiền dễ dàng hơn nhƣng đối với tài sản là vật, hoặc các tài sản có giá khác cần xác định theo giá trị của thị trƣờng làm căn cứ giải quyết vụ án.

Trƣờng hợp ngƣời phạm tội thực hiện nhiều hành vi ở nhiều thời điểm khác nhau vẫn xảy ra gây khó khăn cho hoạt động điều tra, cũng nhƣ khi các đối tƣợng lợi dụng để tránh né pháp luật. Ví vậy, từ thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố và xét xử án hình sự, việc lấy trị giá tài sản bị chiếm đoạt làm căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự trong trƣờng hợp ngƣời phạm tội thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu tài sản liên tục, kế tiếp

44

nhau về mặt thời gian theo nhƣ các hƣớng dẫn xử lý trƣớc đây.45 Điều này theo tác giả vẫn phải duy trì để bảo đảm đấu tranh, phòng chống tội phạm cũng nhƣ khắc phục tình trạng ngƣời tội phạm ―lách luật‖ thực hiện ―xé nhỏ‖ các hành vi sai phạm nêu trên.

Thứ hai, tài sản bị chiếm đoạt đƣợc xem là vật chứng của vụ án hính sự. Với khái niệm về tài sản khá đa dạng đƣợc quy định trong Bộ luật dân sự46, việc thẩm định giá trị những tài sản này là yêu cầu bắt buộc đối với các cơ quan tiến hành tố tụng song điều này cũng gây không ìt khó khăn trong bối cảnh hoạt động giám định tƣ pháp còn nhiều bất cập. Trong nhiều trƣờng hợp, đối với tài sản không hợp pháp hoặc khó xác định đƣợc giá trị, việc xem xét giá trị tài sản dựa trên nhận thức chủ quan của ngƣời phạm tội hoặc theo các quy định làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hính sự là phù hợp, song phải trên nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của ngƣời phạm tội: (i) Thông tƣ liên tịch số 02/2001/TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tƣ pháp hƣớng dẫn áp dụng một số quy định tại Chƣơng XIV ―Các tội xâm phạm sở hữu‖ của Bộ luật Hính sự năm 1999 quy định về điểm này nhƣ sau: Trƣờng hợp qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, trực tiếp lấy lời khai ngƣời phạm tội, có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng ngƣời phạm tội có ý thức chủ quan về giá trị tài sản mính chiếm đoạt trƣớc khi thực hiện hành vi chiếm đoạt thí lấy giá trị tài sản đó để

45 Mục 5 Mục II Thông tƣ liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25-12-2001 liên ngành hƣớng dẫn áp dụng một số quy định tại Chƣơng XIV của Bộ luật Hình sự năm 1999 nhƣ sau: ―Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu, nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án nhưng chưa được xoá án tích...), đồng thời trong các hành vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm, nếu: a) Các hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian…”. Hiện nay các quy định giải quyết cũng dựa theo hƣớng dẫn này, cụ thể Công văn số 64/TANDTC - PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vƣớng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính.

46 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định vật chứng theo nghĩa là vật đƣợc dùng làm công cụ, phƣơng tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tƣợng của tội phạm cũng nhƣ tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và ngƣời phạm tội. Trong khi đó, theo khoản 1, Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015, tài sản bao gồm các loại đó là: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Điều này đồng nghĩa rằng vật chứng cũng có thể là tài sản, việc xử lý vật chứng gắn với lợi ích của các chủ thể tham gia tố tụng cũng nhƣ từng đặc thù tài sản đƣợc giao dịch vốn dĩ khá phức tạp, gây không ìt khó khăn khi xử lý.

45

xem xét việc truy cứu trách nhiệm hính sự đối với họ;47 (ii) Khoản 2, Điều 15 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ban hành ngày 07/3/2018 quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động định giá tài sản; trính tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hính sự ghi nhận đầy đủ thủ tục ƣu tiên định gìa đối với tài sản là hàng cấm theo giá mua bán thu thập đƣợc trên thị trƣờng không chình thức tại thời điểm và tại nơi tài sản là hàng cấm đƣợc yêu cầu định giá hoặc tại địa phƣơng khác. Do đó, cho dù tài sản có nguồn gốc phạm pháp hoặc không đƣợc pháp luật ghi nhận, nhƣng nếu ngƣời phạm tội có ý thức chiếm đoạt và nhận thức đƣợc giá trị cụ thể về tài sản đó có căn cứ nhất định theo tác giả, vẫn phải sử dụng các tính tiết chứng cứ này làm cơ sở để xác định giá trị tài sản khi truy cứu và xử lý.

Thứ ba, việc đánh giá chình xác giá trị tài sản bị chiếm đoạt và giá trị bồi thƣờng thiệt hại có ý nghĩa quan trọng để xác định trách nhiệm hính sự, dân sự đối với ngƣời phạm tội. Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hính sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 thí giá trị tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát không chỉ là căn cứ cấu thành tội phạm mà còn là tính tiết định khung hính phạt. Áp dụng không đúng quy định này sẽ gây ảnh hƣởng nghiêm trọng đến việc truy cứu trách nhiệm hính sự, không xác định đƣợc hính phạt phù hợp, tƣơng xứng với tình chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Việc xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, thƣờng gây không ít nhầm lẫn kéo theo những tranh chấp khi xác định giá trị thị trƣờng của tài sản; xác định giá trị tài sản làm căn cứ xử lý;… gây ra những khó khăn khi xử lý án hình sự tham nhũng kinh tế làm giảm đi hiệu quả xử lý tội phạm, thu hồi tài sản trực tiếp liên quan đến tội phạm theo các chình sách đề ra. Do đó, phát triển mạnh hoạt động giám định tƣ pháp theo hƣớng hiện đại, độc lập và giám sát chặt chẽ lẫn nhau là hết sức cần thiết nhằm khắc phục bất cập này.

3. Mối quan hệ trong việc xét giảm trách nhiệm hình sự thông qua hoạt động thu hồi

Garis besar

Dokumen terkait